Nghị luận về truyện ngắn Chiếc lược ngà lớp 9 Hay Chọn Lọc
Nghị luận phân tích một tác phẩm văn học Chiếc lược ngà
- Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà Ngắn nhất
- Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 1
- Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 2
- Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 3
- Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 4
- Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 5
- Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 6
Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà Ngắn nhất
Chiếc lược ngà là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về đề tài chiến tranh. Tuy nhiên, nhà văn không tập trung khắc họa những nguy hiểm trên chiến trường ác liệt, mà tập trung khai thác những vết thương mà nó đem lại trong cuộc sống của con người thời loạn. Thông qua việc khắc họa chân thực đến đau lòng câu chuyện của cha con ông Sáu và bé Thu.
Trong câu chuyện, bố của bé Thu là một người lính xa nhà đã lâu và chỉ tranh thủ về thăm nhà trong vài ngày. Giữa ông và con gái là bé Thu đã có một khoảng cách lớn bởi từ khi bé Thu còn nhỏ, ông đã đi lính mãi tới tận bây giờ. Và khi trở về, ông lại có một vết sẹo lớn ở trên mặt, khiên cô gái nhỏ không nhận ra cha của mình. Cũng chính vì thế mà trong những ngày đoàn viên ngắn ngủi đó, bé Thu giận dỗi và không chịu gọi ông Sáu là “ba”. Đến khi cô bé nhận ra và hiểu được ý nghĩa của vết sẹo, nhận lại ba thì ông Sáu lại phải ra chiến trường và lần này vĩnh viễn nằm lại ở đó. Bi kịch đau đớn của tình cha con ấy đã được ngòi bút hiện thực sâu sắc của Nguyễn Quang Sáng khắc họa lại đầy lạnh lùng và tàn nhẫn. Đó là bi kịch của gia đình ông Sáu, bi kịch của người cha và người con phải xa cách nhau bởi chiến tranh, loạn lạc. Vết sẹo trên mặt ông Sáu không chỉ là vết sẹo trên gương mặt, mà nó còn là biểu tượng cho vết sẹo trong trái tim ông khi phải xa gia đình, phải chịu ánh mắt xa lạ, sợ hãi của con gái. Nó cũng là biểu tượng của những đau thương, mất mát mà đồng bào ta phải gánh chịu bởi lũ giặc độc ác đang giày xéo trên mảnh đất quê hương. Chính bởi vết sẹo đó, mà bé Thu vốn luôn tự hào về cha, luôn mong ngóng cha đã không nhận ra cha của mình, bỏ lỡ những thời gian đoàn tụ ngắn ngủi của gia đình. Để rồi sau này, khi ong Sáu ra đi mãi mãi, cô bé phải ôm nỗi hối tiếc, ân hận mãi về sau. Niềm an ủi duy nhất của người đọc, có lẽ là tiếng gọi “ba” đau đớn đến xé lòng ngay phút chia tay của bé Thu và ông Sáu. Tiếng gọi đó đã tiếp thêm động lực cho ông Sáu trên con đường hành quân gian khổ. Đó là minh chứng cho sợi dây tình thân vô hình nhưng bền chặt của gia đình, điều mà chẳng bom đạn hay chiến tranh nào có thể cắt đứt.
Trong “Chiếc lược ngà”, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã sử dụng rất nhiều những từ ngữ và hình ảnh đặc trưng của vùng Nam Bộ để tái hiện lại cuộc sống của người dân nơi đây. Cùng với lối viết truyện mộc mạc, cách miêu tả giản dị và nghệ thuật xây dựng, khắc họa diễn biến nội tâm nhân vật sâu sắc, Nguyễn Quang Sáng đã thực sự viết nên một truyện ngắn vô cùng thành công và cảm động về tình phụ tử. Tác phẩm đó cũng như tình cảm cha con thiêng liêng, sống mãi trong lòng người đọc.
Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 1
Cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kì đã để lại bao đau thương, mất mát cho dân tộc Việt Nam. Đã có biết bao tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh khốc liệt ấy để ca ngợi tình người trong chiến tranh đồng thời phơi bày những giá trị hiện thực. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng cũng là một tác phẩm như vậy. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con sâu sắc của người chiến sĩ cách mạng.
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình.
Tình cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ.
Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương, mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh và không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con.
Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. "Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!"
Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh.
Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha.
Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chi tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má ! Má !"
Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm! Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nồi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trổng, nhất định không gọi là cha. Anh Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừa múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Anh Sáu không nén được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé "lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm" bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.
Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quả nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu - tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má.
Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước.
Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa... Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
Điều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ cùa bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.
Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé Thu bối rối, cuống quýt. Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba tức người kể chuyện - thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của anh Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng.
Tình cảm cha con sâu nặng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi anh Sáu vào căn cứ kháng chiến trong rừng sâu.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!", đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái.
Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba".
Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng.
Truyện Chiếc lược ngà có những đặc điểm khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lí. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lí trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời.
Một điểm đáng chú ý nữa và cũng là điều góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện. Người kể chuyện trong vai một người bạn chiến đấu thân thiết của anh Sáu không chỉ chứng kiến và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Qua những quan sát và cảm xúc của người kể, các chi tiết, sự việc và nhân vật trong truyện đều được phản ánh chân thực, khắc hoạ rõ nét, góp phần nêu bật nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con anh Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc.
Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 2
Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014), là một nhà văn, nhà biên kịch nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là với những tác phẩm viết về đề tài người lính và chiến tranh. Văn chương của Nguyễn Quang Sáng là một chất giọng nhẹ nhàng, chân thành, trong sáng và cảm động, chính vì vậy ông được mệnh danh là "một trong những con khủng long quý hiếm của nền văn học thời chiến trận mà tác phẩm không có hận thù". Với tác phẩm nổi tiếng nhất của đời mình - Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng không hề cố khơi gợi lên những mối thù hận chiến tranh mà thay vào đó ông tập trung xoáy mạnh vào tình cảm gia đình, tình cảm cha con và những nỗi đau trong cảnh ngộ đầy éo le của những ngày đất nước đau thương.
Trong truyện ngắn Chiếc lược ngà trước tiên có lẽ cần phải nói đến nỗi đau, nỗi bất hạnh của người lính chiến - anh Sáu. Người đàn ông dường như đã hy sinh cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cầm súng chiến đấu suốt hàng chục năm trời, từ những ngày đứa con gái của anh chưa tròn một tuổi. Anh Sáu hy sinh nhiều lắm, chấp nhận rời bỏ quê hương, rời xa vợ con để theo tiếng gọi của Tổ quốc, hy sinh cả sức khỏe, xương máu của mình ở tại chiến trường. Sau nhiều năm chiến đấu cuối cùng anh nhận lại được những gì? Một tấm thân đầy sương gió, một vết sẹo dữ tợn trên mặt và cuối cùng đó là sự xa lánh, kinh sợ của đứa con gái mà thuở bé anh chưa được ẵm bồng con ngày nào. Đứa trẻ ấy, nó chỉ thương người cha ở trong bức ảnh của mẹ, chứ không phải một người đàn ông trung niên có vết sẹo xấu xí, và trong suốt những ngày nghỉ phép ấy, anh Sáu đã phải đối diện với những nỗi đau thực ghê gớm, sự buồn rầu, xót xa, sự nuối tiếc khi đã bỏ lỡ những thời gian ở cạnh đứa con. Rồi cả những cử chỉ ghét bỏ, lạnh lùng của bé Thu dường như đang cứa vào trái tim anh từng nhát, mang đến những nỗi đớn đau day dứt trong tâm hồn. Không chỉ vậy, trước sự hỗn láo của đứa con mà anh chưa dạy dỗ ngày nào, anh đã đánh nó, khiến nó khóc bỏ đi, có lẽ bé Thu đau một thì anh Sáu lại là người đau mười. Rõ ràng bé Thu không có lỗi, anh Sáu lại càng không có lỗi, lỗi là bởi hoàn cảnh trái ngang đã đẩy đưa khiến cho mối quan hệ cha con trở nên căng thẳng. Cho đến khi cha con nhận nhau, giữa một khung cảnh đầy cảm động yêu thương, mà người ta ước chi nó kéo dài được thêm vài giờ nữa thì anh Sáu lại phải vác súng quay trở lại chiến trường, rồi cuối cùng hy sinh tại đó. Anh đã ra đi khi chưa kịp tận tay đưa cho đứa con gái yêu của mình chiếc lược ngà mà anh hứa sẽ tặng nó, ra đi trong những nỗi đau và nuối tiếc dồn nén, cả đối với người ra đi và những người ở lại. Vậy có thể nói rằng, nhân vật anh Sáu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà chính là một trong những đại diện, ví dụ tiêu biểu nhất về câu nói: "Không có hạnh phúc nào cho người lính". Điều đó khiến mỗi chúng ta ngày hôm nay lại càng phải thêm trân trọng những gì mà cha ông đã hy sinh xương máu, tình cảm cá nhân để giành lại, đồng thời có tấm lòng yêu thương, kính trọng với những con người đã ngã xuống về nền độc lập dân tộc cũng như với thân nhân của họ.
Một nhân vật thứ hai nữa trong truyện ngắn ấy là bé Thu, có thể nói rằng cô bé cũng là một trong những nạn nhân gián tiếp của chiến tranh. Bé Thu có hoàn cảnh tội nghiệp, cha ra đi vào chiến trường từ những ngày bé còn chưa biết gì, thiếu thốn tình cảm của cha, lớn lên trong vòng tay của mẹ, của bà vào những năm tháng đất nước nhiều đau thương. Thế nhưng có lẽ trẻ con thời kỳ này trưởng thành sớm, Thu là một cô bé biết suy nghĩ, bé thấu hiểu cho hành động đi chiến đấu của cha, và trong trái tim bé nhỏ của nó không chỉ là những tình cảm yêu thương thắm thiết phụ tử, mà còn là cả tấm lòng ngưỡng mộ về một người lính cách mạng anh hùng. Nhưng chính sự xa cách và những suy nghĩ non dại của Thu đã dẫn đến những bi kịch gia đình, khi mà cô bé một lòng yêu thương trân trọng người đàn ông trẻ tuổi ở trong tấm ảnh, cô bé ấy không thể hiểu được rằng bom đạn có thể lấy đi của người ta tất cả mọi thứ, và để lại trên thân thể những vết sẹo không bao giờ lành. Sự kỳ vọng bao nhiêu về một người cha trẻ trung, sáng láng thì bé Thu lại càng thất vọng và sợ hãi khi thấy một người tự xưng là cha mình, nhưng mặt lại có vết sẹo dữ tợn, bộ dáng phong trần già nua, khác hoàn toàn với những gì bé tưởng tượng. Điều ấy khiến bé Thu thất vọng và căm ghét người đàn ông trước mắt, Thu không chịu nhận ông Sáu là cha, không gọi một tiếng "cha" nào cả, và còn có những hành động hỗn hào, lạnh lùng với ông Sáu. Khi ấy người ta mới thật thấm thía những bi kịch gia đình của người lính, khi xa nhà quá lâu, đến vợ có khi còn quên mặt nói gì đến một đứa bé 8 tuổi chưa từng gặp mặt cha lần nào, chưa từng được ôm hôn hưởng thụ thứ tình cảm phụ tử ấm áp như bé Thu. Thì việc bé Thu giãy nảy, băn khoăn, khó chịu trong lòng khi đối diện với một ông Sáu hoàn toàn khác xa những gì bé biết là hoàn toàn có thể xảy ra và có lẽ nó đã xảy ra trong rất nhiều gia đình của những người lính chiến. Thế mới nói một khi người lính ra đi, họ chỉ có thể mất đi nhiều thứ, chứ chẳng nhận được điều gì ngoài việc đất nước nay mai được hòa bình. Một lý tưởng vĩ đại, đã đựng dựng nên bằng hàng vạn những hy sinh mất mắt mà không phải ai cũng thấu hiểu. Một bi kịch khác trong mối quan hệ giữa cha con bé Thu và của chính bé Thu có lẽ là nỗi niềm hối hận, nuối tiếc muộn màng. Khi cô bé đã hiểu ra mọi chuyện, quyết định quay về nhận cha, thì cũng là lúc anh Sáu phải quay lại chiến trường. Cuộc hội ngộ cha con cảm động chỉ diễn ra trong vài phút giây ngắn ngủi, ông Sáu vẫn chưa bù đắp được gì cho con, còn bé Thu cũng chưa kịp yêu thương ông Sáu như những gì nó hằng tưởng đến. Đó là nỗi đau không chỉ của riêng hai nhân vật mà nó còn là nỗi đau chung của nhiều gia đình trên đất Việt lúc bấy giờ, bao nhiêu tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em, tình vợ chồng nhiều khi chỉ kịp bùng lên một nhoáng rồi đứt đoạn vì những hy sinh mất mát trong chiến tranh, để cho những người ở lại biết bao xót xa, ân hận. Đặc biệt ở trong hoàn cảnh của bé Thu, ngày bé nhận cha cũng là lần cuối cô bé còn được nhìn thấy cha bằng xương bằng thịt, thì lại càng thêm đau đớn. Người con gái ấy kể cả khi lớn lên, có lẽ trong trái tim vẫn luôn âm ỉ đau đớn một nỗi niềm hối hận, khi giờ đây chỉ còn lại duy nhất chiếc lược ngà là kỷ vật người cha tỉ mẩn khắc từng nhát dao để lại cho cô bé.
Nhưng có một điều không thể nào chối cãi được rằng, dù gần gũi thì ít, xa cách thì nhiều thế nhưng tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu là những tình cảm thật thắm thiết và sâu nặng. Khi bản thân ông Sáu cố gắng bù đắp, cố gắng, chăm sóc bé Thu những ngày nghỉ phép, nén nhịn nỗi đau nỗi tức giận trước sự lạnh nhạt của con bé, chỉ mong được con bé thừa nhận. Đến khi ra chiến trường nhiều nguy hiểm gian khó, ông Sáu vẫn nhớ y nguyên những lời dặn dò của bé Thu tỉ mẩn làm cho nó một chiếc lược ngà, làm xong rồi thì luôn đặt trong túi trước ngực, thỉnh thoảng lại lấy ra chải tóc cho chiếc lược thêm bóng bẩy, đẹp đẽ. Có thể nói bao nhiêu yêu thương đều dồn cả vào trong đó. Thì ở bé Thu là những tình cảm ngây thơ trong sáng, tình yêu thương đối với cha hình thành từ tấm ảnh, rồi qua những lời kể của mẹ, của bà, và cuối cùng là khi đã hiểu rõ mọi chuyện, thì con bé trở nên dũng cảm, lập tức quay về nhận cha, vì sợ không được gặp cha nữa. Có thể nhận thấy rằng Thu là một đứa trẻ hiểu chuyện, tuy có cứng đầu, thế nhưng là một đứa trẻ ngoan, sẵn sàng sửa sai khi nhận ra lỗi lầm của mình.
Đến nay chiến tranh dù đã qua đi được hơn nửa thế kỷ nhưng có những nỗi đau, có những câu chuyện vẫn khiến nhiều độc giả phải thấy xúc động và đau đớn cho nhân vật, cuộc đời của những người lính chiến và gia đình của họ. Đặc biệt trong truyện ngắn Chiếc lược ngà thì tình cảm cha con giữa hai nhân vật ông Sáu và bé Thu vừa khiến người ta cảm động lại cũng là một bi kịch đầy xót xa, khiến chúng ta không thể không có nhiều trăn trở suy nghĩ.
Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 3
Nếu như trong Chuyện người con gái Nam Xương tác phẩm được tác giả Nguyễn Dữ xây dựng cốt truyện trở nên hấp dẫn và đầy kịch tính nhờ những chi tiết đặc sắc như chi tiết kì ảo và chi tiết cái bóng thì trong Chiếc lược Ngà - Nguyễn Quang Sáng, vai trò của những chi tiết ấy cũng thể thiếu được. Và đó chính là chi tiết chiếc lược ngà cùng vết thẹo dài trên ông Sáu.
Với chi tiết Chiếc Lược ngà đây là cũng là nhan đề chính của câu chuyện. Chi tiết này mang lại nhiều ý nghĩa đối với từng nhân vật trong tác phẩm. Như với ông Sáu đây là kỉ vật duy nhất ông dành cho con, là lời hứa sẽ trở về cùng đoàn tụ với con gái, nhưng quan trọng nhất là đây là vật giúp ông gỡ rối được trong lòng mình vì khi tức giận đã đánh bé Thu. Đồng thời, chiếc lược ngà mỗi khi ông mang ra mài giũa cũng là lúc giúp ông vơi bớt nỗi nhớ con gái.
Và chi tiết chiếc lược ngà có ý nghĩa với ông Sáu bao nhiêu thì nó lại càng quan trọng với Bé Thu bấy nhiêu. Bởi đây là di vật thể hiện giấc mơ tuổi thơ về lời hứa của ông Sáu với cô bé sẽ trở về và đem mua cô một chiếc lược. Và món quà duy nhất mà cha cô để lại này nó chất chứa biết bao tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu, đó là tình cha con thiêng liêng và đáng quý bởi nó diễn ra vô cùng ngắn ngủi trong thời khắc mà cô bé nhận ra ba của mình nhưng đó cũng là thời khắc éo le trong cuộc chia tay của họ.
Không chỉ bé Thu hay ông Sáu, chiếc lược ngà ấy cũng vô cùng ý nghĩa với Bác Ba. Đó là sự ủy thác thiêng liêng của người bạn thân mà giây phút trước khi hi sinh ông Sáu không kịp trăn trối điều gì chỉ có thể rút chiếc lược ra và nhờ Bác Ba đem tận tay cho cô con gái bé nhỏ. Và Bác Ba đã trở thành người giúp kết nối tình cảm cha con cho ông Sáu với Bé Thu.
Nhưng đặc biệt hơn, chi tiết đặc sắc chiếc lược ngà không chỉ có ý nghĩa với các nhân vật trong truyện mà nó là biểu tượng cho tình phụ tử thiêng liêng, giúp gắn kết các câu chuyện với nhau tạo nên một mạch câu chuyện diễn ra có sự liên kết và hấp dẫn, cảm động hơn. Và hơn hết, chiếc lược ngà đó là nhân chứng cho nỗi đau và sự hi sinh do chiến tranh gây ra.
Cùng với chi tiết chiếc lược ngà, chi tiết vết thẹo trên mặt ông Sáu song song, đồng hành góp phần làm cho câu chuyện trở nên đầy kịch tính và lôi cuốn, chạm đến trái tim người đọc hơn.
Cũng giống như chi tiết cái bóng trong Chuyện người con gái Nam Xương thì chi tiết vết thẹo đặc sắc này trong Chiếc lược Ngà đóng vai trò quan trọng cho cốt truyện, bởi đó là chi tiết thắt nút - mở nút cho câu chuyện.
Nó ý nghĩa thắt nút cho câu chuyện bởi vì chính vết thẹo mà bé Thu không nhận ra ngay từ lần gặp đầu tiên. Khi vừa thấy một đứa trẻ vui đùa trên bến, ông Sáu vội vàng gọi bé Thu và vết thẹo của ông cũng đỏ ửng lên, tình tiết này đã làm cho bé Thu hoảng sợ và chạy khóc gọi mẹ. Cảnh tượng ấy xuất hiện thật éo le, còn nỗi đau hay sự thất vọng nào bằng chính sự hoảng sợ và con gái không nhận ra ba nó. Và chính vì vết thẹo ấy mà bé Thu một mực không nhận Ba, quyết không gọi ba, bởi với cô bé người ba này không giống với ba chụp chung hình với má.
Bên cạnh thắt nút, chi tiết đặc sắc vết thẹo cũng là chi tiết mở nút cho câu chuyện. Và cho đến khi được bà ngoại giải thích vì sao trên mặt ông Sáu có thẹo là do thằng Mĩ gây nên đã góp phần giải toả sự nghi ngờ của cô bé mới 8 tuổi. Và khi mở nút cho câu chuyện từ chi tiết vết thẹo, kịch tính của câu chuyện như được đẩy cao trào lên khi cô bé nhận ra ba mình trong thời khắc của một cuộc chia tay. Cô nhận ra ba mình và không muốn xa lìa ông, nên cô bé có những cử chỉ trái ngược với ban đầu của câu chuyện, nếu như trước đây vết thẹo làm cô sợ thì cô bé lại càng yêu vết thẹo ấy, cô hôn lên trán, lên má và cả lên vết thẹo dài của ba mình.
Cũng từ chi tiết mở nút ấy, ta nhận ra được nhiều điều hơn về nhân vật cũng như chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Với ông sáu, vết thẹo là dấu vết của chiến tranh, là minh chứng cho lòng dũng cảm và sự hi sinh của một chiến sĩ cách mạng. Đồng thời nó là rào cản làm ông mất đi 3 ngày không được làm cha. Còn với bé Thu, nó thể hiện được cá tính mạnh mẽ và cùng tình yêu sâu sắc của cô bé dành cho ba vô cùng lớn. Còn với nội dung, chủ đề tư tưởng của tác phẩm, chi tiết vết thẹo là minh chứng cho những nỗi đau trong chiến tranh đồng thời khẳng định tình phụ tử thiêng liêng, vĩnh cửu và mạnh liệt, nó không thể bị hủy diệt cho dù chiến tranh có xảy ra.
Như vậy, qua hai chi tiết đặc sắc như chiếc lược Ngà và vết thẹo đã góp phần làm cho câu chuyện trở nên kịch tính, hấp dẫn và ý nghĩa hơn. Đặc biệt nó đã khẳng định được tình yêu cha con thật thiêng liêng và đáng trân quý ở mọi hoàn cảnh, đó cũng là tư tưởng mà tác giả Nguyễn Quang Sáng muốn gửi đến qua tác phẩm "Chiếc lược Ngà".
Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 4
Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng, tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi dấu tận đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gởi lại quê hương đứa con thân yêu nhất của mình để rồi trong giờ phút hiếm hoi giữa cuộc hành quân nỗi nhớ con không còn dấu được. Tình cảm thiêng liêng ấy càng mãnh liệt hơn trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1945, tập kết ra Bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng thuộc nhiều thể loại: Truyện ngắn có “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Người đàn bà đức hạnh”, “Vẽ lại bức tranh xưa”…
Các tiểu thuyết “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu” được nhiều độc giả biết đến và đặc biệt là kịch bản phim nổi tiếng “Một thời để nhớ một thời để yêu”. Có lẽ vì sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử .
“Chiếc lược ngà ” được viết vào năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Nội dung văn bản trong là cuộc gặp gỡ của anh Sáu – một người xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu – con gái anh không nhận cha, trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha. Điều đó làm anh Sáu đau lòng, nhưng anh vẫn yêu thương con bằng tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, anh Sáu phải ra đi.
Đến lúc ấy Bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau. Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt anh Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy anh không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện, em cất tiếng gọi “Ba…ba!..” và hẹn “Ba mua cho con một cây lược nghe!”. Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu quý nhớ con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu anh đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt anh còn kịp trao cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con. Truyện được viết theo lời kể qua cái nhìn của ông Ba – nhân vật xưng tôi. Tuy đây là một đề tài khá phổ biến trong văn chương nhưng chính vì thế mà giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.
Chi tiết “vết thẹo” xuất hiện 3 lần: lần 1, phút đầu bé Thu gặp ba; lần 2, qua cuộc trò chuyện với bà ngoại; lần 3, Thu nhận ra ba, hôn cùng khắp, hôn cả vết thẹo.
Vết thẹo trên gương mặt ông Sáu là chi tiết nghệ thuật độc đáo, vừa thắt nút truyện, đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, lại vừa mở nút truyện. Vì vết thẹo mà bé Thu không nhận ra ba, đối xử với ba một cách lạnh lùng, cự tuyệt. Khi được bà ngoại giải thích về vết thẹo trên gương mặt ba, mối nghi ngờ của bé Thu về ông Sáu đã được giải toả, khiến bé Thu nhận ra ba. Khi nhận ra ba, tình cảm, thái độ của em đã thay đổi hoàn toàn. Như vậy, chi tiết vết thẹo đã tạo nên kịch tính, tình huống truyện làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn của tác phẩm.
Chi tiết nghệ thuật vết thẹo góp phần quan trọng thể hiện tính cách và tình cảm của nhận vật bé Thu – một em bé có bản lĩnh và có tình yêu ba sâu sắc.
Chi tiết nghệ thuật vết thẹo còn thể hiện sự tàn khốc của chiến tranh và là lời tố cáo chiến tranh nhẹ nhàng mà thấm thía. Chiến tranh không chỉ khiến vợ phải xa chồng, con phải xa cha. Chiến tranh không chỉ tàn phá thể xác mà còn làm tổn thương tinh thần, khiến con không nhận ra cha. Chiến tranh khiến người ta phải xa cách và phải xa cách trong chính lúc gặp mặt.
“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, cời chi tiết nghệ thuật đặc sắc: vết thẹo, tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa tính cách nhân vật bé Thu, đồng thời góp phần tạo nên sự lôi cuốn hấp dẫn người đọc. Chi tiết cũng góp phần làm cho tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng sống mãi cùng thời gian.
Chi tiết “vết thẹo” đã thắt nút và mở nút câu chuyện về chính vết thẹo đã làm bé Thu không nhận ra cha nên em đã lạnh nhạt và xa lánh ông Sáu, kiên quyết không gọi ông Sáu là “ba”. Nhưng trong thái độ đó ta lại nhận ra một tình cảm thuỷ chung, sâu sắc mà bé Thu dành cho cha của nó. Và cũng chính “vết thẹo” ấy, sau khi đã hiểu được ngọn nguồn của nó lại làm cho bé Thu càng yêu cha nhiều hơn. Ngoài ra, “vết thẹo” còn là chứng tích của chiến tranh gây ra bi kịch trong tình cảm của cha con ông Sáu, gợi cho người đọc nghĩ đến những mất mát đau thương éo le của chiến tranh. Vì vậy, chi tiết “vết thẹo” còn mang ý nghĩa tố cáo chiến tranh. Từ đó, ta thấy chi tiết “vết thẹo” đã thể hiện sự già dặn trong ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng.
Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 5
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống của con người Nam bộ. Tác phẩm của ông đã để lại dấu ấn trong lòng biết bao người đọc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Đoạn trích “Chiếc lược ngà” trong sách văn chín-tập một cho ta hiểu được tình cha con của anh Sáu và bé Thu rất thiêng liêng và đẹp đẽ. Để hiểu rõ hơn về tình cảm cao đẹp đó chúng ta hãy phân tích về nhân vật anh Sáu và bé Thu trong đoạn trích ấy.
Anh Sáu xa nhà đi chiến đấu cho đến khi bé Thu lên tám tuổi anh mới có dịp về thăm nhà thăm con. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, bé Thu không chịu nhận anh là cha vì vết sẹo dài trên má khiến cho anh không giống với người cha trong ảnh chụp chung với má mà em đã được xem. Em chỉ nói trổng, không nhờ anh chắt nước cơm vì không muốn gọi ba và Thu đã hất tung cái trứng cá mà anh gắp cho rồi em bơi xuồng qua mét ngoại. Khi bé Thu nhận ra anh Sáu là ba thì tình cảm cha con trỗi dậy mãnh liệt trong long em, nhưng đó cũng là lúc anh Sáu đã đi rồi. Ở khu căn cứ, anh Sáu đã làm cho con chiếc lược ngà với dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Trong một trận càn, anh Sáu bị thương. Trước lúc hi sinh, anh còn kịp trao chiếc lược ngà cho đồng đội, nhờ bác Ba đem về cho bé Thu.
Bé Thu là một đứa trẻ thương cha bằng một tình cảm mãnh liệt, bất tử. Cũng như nhiều đứa trẻ bất hạnh khác trong chiến tranh, bé thu thiếu thốn tình yêu thương của người cha tử tấm bé. Do đó, em khát khao được gặp cha và mong muốn được gọi một tiếng ba trong đời. Nhưng tất cả những gì bé Thu biết về cha mình chỉ là một tấm ảnh cũ khi ông chụp chung với mẹ. Hình ảnh ấy đã khắc sâu vào trong tâm trí bé. Vì vậy, khi gặp ông Sáu, bé Thu không thể chấp nhận ông Sáu là cha bởi trên khuôn mặt ông là một vết sẹo dài đáng sợ khác hẳn với người cha trong tấm ảnh. Anh Sáu càng gần gũi, vỗ về bé thì bé càng đẩy ra. Em chẳng bao giờ chịu gọi ba, bất chấp lời dọa nạt, kể cả khuyên nhủ của người. Nhưng bé Thu càng tỏ thái độ lạnh nhạt, xa lánh ông Sáu ta càng thấy rõ tình yêu của bé đối với người cha của mình trong tấm ảnh. Đối với em, tình thương cha không thể chia sẻ cho bất cứ ai. Em phản kháng mãnh liệt để khẳng định mình chỉ có một người cha. Tất cả những hành động, suy nghĩ ấy đã tan biến khi em hiểu vấn đề.
Khi được bà ngoại giải thích, bé Thu đã trăn trở và ân hận nhưng đó cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Bao cảm xúc dồn nén trong long suốt mấy năm nay cộng với nỗi ân hận đã vỡ òa ra thành tiếng thét như cứa vào tâm can của mọi người. Trong giây phút chia tay ấy, cái nhìn xa xăm, bao cử chỉ, hành động đều nói lên tình thương cha của em thật nồng nàn. Hiểu được tình thương của người con nhỏ bé đó, không ai giận em mà quý em nhiều hơn. Thử hỏi, có nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau của một đứa con mong muốn được gặp cha trên đời, nhưng đến khi gặp mặt, nó lại không nhìn nhận. Để rồi đến lúc hiểu ra thì cha nó phải chia xa vĩnh viễn. Khi lớn lên, bé Thu đã trở thành cô giao liên dũng cảm và nhận chiếc lược ngà của ba từ ông Ba. Tình cha con trong Thu đã trở nên bất tử.
Trong đoạn trích “Chiếc lược ngà”, tình thương con dạt dào bất tận của người cha-anh Sáu, đã thể hiện rất rõ nét. Thương gia đình, thương con nên anh đi chiến đấu khi con chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ con của anh chồng chất theo thời gian. Bởi vậy khi được về thăm nhà, ông cảm thấy nôn nao, trăn trở. Nhưng trái ngược với sự mừng rỡ, xúc động khi được về thăm con là cảm giác hụt hẫng trước thái độ xa lánh của con. Với anh, nỗi đau thương tật để lại trên mặt không đau bằng nỗi đau tinh thần. Nhưng anh vẫn không hề thất vọng khi trao tình thương cho con mà bị con từ chối. Suốt ba ngày phép, anh luôn ở gần con để vỗ về con, mong được nghe tiếng ba. Nhưng đáp lại sự quan tâm của anh chỉ là sự phản kháng, lạnh lùng và những lời nói trổng của con gái. Điều đó đã khiến anh vô cùng đau khổ. Chính lòng thương con đã khiến anh nhẫn nhục, kiên trì. Hạnh phúc dâng trào và những dòng nước mắt trong giây phút chia tay khi anh được con gọi bằng tiếng ba thân thương, nỗi mong chờ của người cha đã được bù đắp. Nhưng hạnh phúc đến với anh sao mà ngắn ngủi quá vì đã đến lúc anh phải chia tay với con. Dù ở gần con hay ở xa con nhưng tình thương của anh Sáu không phai nhạt. Ở chiến khu, anh rất nhớ con và ân hận vì đã đánh con. Anh đã dồn tất cả tình yêu thương của mình để làm chiếc lược ngà với dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Đó chính là thước đo để đánh giá tình thương con sâu đậm của anh. Trong một trận càn, anh bị bắn. Trước phút lâm chung, anh không nói được lời nào nhưng anh vẫn nhớ đến “Chiếc lược ngà”. Bằng cái nhìn với người đồng đội, anh Sáu đã chuyển giao kỉ vật cho bé Thu. Phải chăng tình yêu thương con là sức mạnh để anh vượt qua cái chết. Tình thương con của anh đã trở nên bất tử.
Chiến tranh đã gián tiếp xuất hiện qua vết sẹo của anh Sáu. Nó đã trở thành hố sâu ngăn cách tình cảm cha con. Tuy nhiên, vượt qua rào cản vô hình ấy, tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu lại trở nên cao đẹp và thiêng liêng hơn bao giờ hết.
Em cảm thấy xúc động trước sự mất mát của cha con anh Sáu. Biết bao nhiêu người đã hi sinh tình cảm đẹp đẽ ấy trong chiến tranh chống quân xâm lược.
Bằng giọng kể hay, truyền cảm - Bác Ba, cách kể chuyện tự nhiên với những tình huống bất ngờ nhưng hợp lí, đặc biệt là cách xây dựng vai kể làm cho câu chuyện trở nên chân thật, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã đem đến cho người đọc cảm xúc nhẹ nhàng, sâu sắc về bức tranh hiện thực của cuộc chiến những năm 1966: mối quan hệ tình cảm gia đình trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc đầy gian khổ và hi sinh. Câu chuyện đã khuyên chúng ta phải biết trân trọng và giữ gìn tình cảm gia đình thiêng liêng và đẹp đẽ.
Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà - Mẫu 6
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn Chiếc lược ngà thấm đượm tình cha con.
Ông Sáu là người chiến sĩ xa nhà đi lính từ khi bé Thu - con gái ông vẫn còn rất nhỏ. Tám năm sau, ông Sáu có dịp trở về thăm gia đình, để được gặp lại vợ và con gái. Ngỡ tưởng rằng con gái ông sẽ hạnh phúc, vui mừng khi nhìn thấy ba nhưng không, bé Thu không nhận ra ba vì trông ông Sáu không giống với người ba của bé trong ảnh. Bé hét lên gọi má khi ông Sáu lại gần: "Thu! Con". Trong suốt ba ngày ở bên ba, bé Thu thường nói trống không, lạnh nhạt với ba. Đỉnh điểm, trong bữa ăn, khi ông Sáu gắp cho con cái trứng cá, bé Thu đã hất văng ra, khiến ông Sáu giận dữ và đánh con. Tối hôm đó, bé Thu nghe bà kể về vết sẹo trên gương mặt ba nên bé đã thấy mình cư xử không đúng, bé thương ba. Khi ông Sáu đi, bé Thu đã chạy ra gọi ba, ôm hôn ba khiến cho mọi người đều thấy cảm động. Sau khi chia tay, ông Sáu vẫn luôn nhớ về con gái, ông tỉ mẩn khắc Chiếc lược ngà để tặng cho con gái. Nhưng trong một trận càn của giặc, ông Sáu đã hi sinh. Trước khi chết, ông trao cho anh Ba chiếc lược ngà, chờ anh Ba hứa sẽ trao cho bé Thu rồi mới yên tâm nhắm mắt.
Câu chuyện trước hết ca ngợi tình cảm phụ tử thiêng liêng cao đẹp giữa bé Thu và anh Sáu. Tuy họ nhận nhau ở những giờ phút muộn màng nhưng chính khoảnh khắc ấy đã vờ òa và bóp nghẹt bao trái tim bạn đọc. Bên cạnh đó, câu chuyện còn ca ngợi lòng hi sinh, sự kiên nhẫn của người cha dành cho đứa con nhỏ, dù nó có không nhận mình, thậm chí xa lánh mình nhưng vẫn luôn cố gắng để được nhận tình yêu thương từ con gái. Câu chuyện khiến bạn đọc xúc động bởi sự ngây ngô của đứa bé, trong lòng chỉ tôn thờ người ba duy nhất mà mình biết qua tấm ảnh chứ không chịu nhận người khác là ba. Đến khi hiểu ra cơ sự thì ăn năn, tình cảm bao năm dồn ném bùng nổ thành hành động ôm chặt ba, khóc và không cho ba đi lính. Câu chuyện ca ngợi những con người dũng cảm thời chiến, không màng đến những lợi ích nhỏ nhoi mà một lòng lên đường đánh giặc bỏ lại phía sau mẹ già con thơ vì sự nghiệp tổ quốc. Nguyễn Quang Sáng cũng gián tiếp phê phán tội ác của đế quốc đã gây ra chiến tranh khiến con người xa lìa cuộc sống đời thường và chia rẽ tình cảm của họ.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng câu chuyện vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng, bài học sâu sắc trong lòng bạn đọc.