TOP 11 bài Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Văn mẫu lớp 9: Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương được VnDoc tổng hợp và đăng tải bao gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay lớp 9 cho các em học sinh tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng xây dựng bài viết hay, hoàn chỉnh.

I. Dàn ý Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương

Dàn ý Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” và vẻ đẹp, số phận bi kịch của Vũ Nương.

2. Thân bài

a. Vẻ đẹp của Vũ Nương

  • Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
  • Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.

→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.

  • Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
  • Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc mẹ chồng những ngày cuối đời.

→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công - dung - ngôn - hạnh” đáng ngưỡng mộ.

→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt đẹp.

b. Số phận bi kịch của Vũ Nương

  • Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm nào cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
  • Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và thanh minh.

→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc vào người đàn ông tỏng gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.

  • Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.

→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp nàn dã làm cho nhà chồng.

  • Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vô cùng đau xót nhưng nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng nàng cũng được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh nhận ra lỗi lầm, ân hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm.

3. Kết bài

Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm.

Dàn ý Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu nhà văn Nguyễn Dữ cùng tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.

Tóm lược bi kịch của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa => Những nét đẹp của Vũ Nương trong tác phẩm của Nguyễn Dữ.

2. Thân bài

  • Hình tượng người phụ nữ chung thủy son sắt và thùy mị nết na.
  • Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương qua sự chăm chút lo toan cho gia đình.
  • Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương khi nàng đã được giải oan khuất.

3. Kết bài

Tóm tắt lại giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm.

Bày tỏ suy nghĩ của bản thân về nàng Vũ Nương nói riêng cũng như số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến trước đây.

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

II. Đoạn văn Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

"Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm rất hay, đặc sắc của Nguyễn Dữ. Nhân vật trung tâm của truyện là Vũ Nương - người con gái có cả tư dung lẫn phẩm hạnh tốt đẹp nhưng lại chịu số phận bất hạnh. Mở đầu, Nguyễn Dữ đã giới thiệu nàng là người "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Từ khi lấy Trương Sinh về làm chồng, nàng luôn tuân theo khuôn phép, giữ gìn hòa khí gia đình ấm êm. Khi chồng đi lính, nàng còn luôn chăm sóc, thuốc thang, an ủi mẹ chồng đau ốm. Khi bà mất, nàng liền lo liệu ma chay chu đáo không khác gì cha mẹ đẻ. Từ đó, nàng nuôi con một mình chờ chồng trở về. Ba năm cô đơn dài đằng đẵng, nàng ngày đêm nhớ nhung chồng, một mình gánh vác cả gia đình. Tưởng chừng như người con gái đảm đang, hiền thục ấy sẽ sớm có được hạnh phúc nhưng số kiếp không cho nàng có cuộc sống vui vẻ, đầm ấm. Trương Sinh đi lính trở về, nghi là vợ thất tiết bèn đuổi đánh Vũ Nương ra khỏi nhà. Đau khổ vì không có cách nào khiến chồng tin tưởng, nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang để thể hiện tấm lòng thủy chung. Thật ra bi kịch của nàng bắt đầu từ khi chồng đi lính. Chiến tranh đã chia cắt đi hạnh phúc đôi lứa. Nàng phải chịu cảnh cô đơn sớm tối khi đang ở độ tuổi xuân xanh. Tiếp theo, tư tưởng "trọng nam khinh nữ" đã trao quyền lực cho người đàn ông, khiến Trương Sinh có những hành động vũ phu, đánh đuổi vợ mình ra khỏi nhà. Ở một xã hội như thế, những người phụ nữ nhỏ bé như Vũ Nương luôn bị vùi dập, bị đối xử bất công. Đến bước đường cùng, họ đành lựa chọn cái chết như một sự giải thoát cho bản thân. Thậm chí, khi được minh oan thì Vũ Nương cũng không quay về vì biết xã hội đó không phải nơi dành cho mình. Thông qua vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương, ta thấy rằng nàng như đại diện của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến: xinh đẹp, hiền thục nhưng lại phải chịu đựng nhiều đau thương, mất mát

III. Văn mẫu Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 1

“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương

Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,

Cung nước chi cho lụy đến nàng.”

(Lê Thánh Tông)

Lấy cảm hứng từ câu chuyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã dùng ngòi bút nhân đạo của mình để viết lên “Chuyện người con gái Nam Xương” trong một hiện thực xã hội đương thời đầy bất công oan trái. Tác phẩm như tiếng nói mạnh mẽ tố cáo xã hội phong kiến bất công, nghiệt ngã đã gây ra bi kịch đau đớn, đồng thời là tiếng nói ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua nhân vật Vũ Nương.

Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tài năng, kiến thức uyên bác mà còn chất chứa những hoài bão nguyện vọng thầm kín về khát vọng hạnh phúc, sự công bằng trong cuộc sống. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện trích trong “Truyền kì mạn lục” - một “thiên cổ kì bút” ngàn đời, được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ vẻ đẹp đời sống và tính cách nhân vật. Nguyễn Dữ đã giới thiệu “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chỉ bằng một câu văn ngắn, Nguyễn Du đã khái quát một cách đầy đủ và trọn vẹn vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương, ở nàng hội tụ đầy đủ cả công - dung - ngôn - hạnh. Chàng Trương cũng bởi mến cái dung hạnh ấy, nên mới xin với mẹ trăm lạng vào cưới về.

Không chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, Vũ Nương còn là một người vợ yêu chồng, thủy chung với chồng và luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng luôn giữ gìn khuôn phép dù chồng nàng đa nghi, phòng ngừa quá mức nhưng gia đình chưa từng xảy ra bất hoà. Cưới nhau chưa được bao lâu, Trương Sinh phải ra trận bởi chàng là con nhà hào phú nhưng thất học nên phải đi lính buổi đầu. Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Nàng vô cùng cảm thông và xót xa cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng chốn xa trường. Những lời nói của Vũ Nương khiến ta không khỏi rơi nước mắt, nghẹn ngào, xúc động.

Xa chồng là thế, nhưng nàng vẫn là người vợ hết mực chung thuỷ với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Ngày qua tháng lại, thời gian thấm thoát thoi đưa, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nỗi nhớ dài dằng dẵng không thể ngăn được. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì lòng nàng dường như quặn thắt lại đầy xót xa.

Sau khi xa chồng vừa đầy tuần thì nàng hạ sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản. Không chỉ là một người vợ thủy chung son sắt, nàng còn là một người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy con cái. Nàng hết lòng và tận tâm bù đắp cho đứa con trai sự thiếu vắng tình cha. Nàng đã chỉ cái bóng trên tường và bảo rằng đó là cha Đản, để con có thể cảm nhận hạnh phúc của một mái ấm gia đình.

Chính trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, đức tính hiếu thảo của Vũ Nương lại càng bộc lộ rõ hơn. Khi ấy, mẹ chồng cũng vì nhớ con trai mà sinh bệnh nặng. Nàng đã tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nàng hết sức thuốc than lễ bế thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, bởi yếu tố tâm linh đối với người xưa là rất quan trọng. Nhưng việc gì đến rồi cũng sẽ đến, bà mẹ không qua khỏi. Trước khi rời xa cõi đời, bà đã để lại lời trăng trối cuối cùng như một sự cảm tạ và ghi nhận công lao của Vũ Nương đối với gia đình: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp…. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Sự hiếu thảo của Vũ Nương với mẹ chính khiến ta nhớ đến nhân vật Thúy Kiều trong "Truyện Kiều” của Nguyễn Du, một cô gái sẵn sang bản thân mình để cứu cha và em. Những người phụ nữ ấy thật đáng để chúng ta tôn trọng và yêu thương.

Qua một năm sau, Trương Sinh đã được trở về nhà. Chàng hay tin mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Bi kịch của Vũ Nương đã bắt đầu từ giây phút đứa con ngây thơ nói về người cha của mình, rằng đó là “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”.

Nhưng trong sự oan ức ấy, nàng vẫn hiện lên rất cao cả, giàu lòng vị tha và trân trọng nhân phẩm, tình nghĩa. Khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng đã tìm mọi cách để chồng hiểu cho tấm lòng thủy chung và trong sạch của mình. Nhưng thật đáng tiếc, Trương Sinh như đẩy nàng đến bước đường cùng khiến Vũ Nương mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Nàng đã phải chết oan ức nhưng nàng không hề oán trách, hận thù. Nghe chàng Phan - một anh chàng cùng làng kể về gia đình, về nhà cửa, nàng vẫn ứa nước mắt ra mà khóc, vẫn nặng lòng thương nhớ chồng con, nhớ nhung quê hương, vẫn quả quyết “ắt có ngày tìm về quê cũ”. Dù cuộc sống của nàng đã gắn liền với chốn cung nước, nàng vẫn khao khát được phục hồi danh dự, mong muốn chàng Trương lập dàn giải oan cho mình ở bến Hoàng Giang và nàng đã trở về trong lễ giải oan để nói lời tạ từ. Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ người vợ thủy chung, một người mẹ thương con, một người con dâu hiếu thảo. Ở bất kỳ cương vị nào, nàng cũng làm rất hoàn hảo.

Một người phụ nữ như Vũ Nương đáng lẽ phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, ấm êm như các cách nàng đã vun vén và khao khát, nhưng nàng lại chịu đựng một số phận bất hạnh, một nạn nhân của bi kịch, của hạnh phúc gia đình tan vỡ và quyền sống bị chà đạp.

Trước hết, nàng là nạn nhân của xã hội phong kiến khi lấy phải người chồng đa nghi, hay ghen, cuộc hôn nhân ấy như một sự báo hiệu về những sóng gió trong cuộc sống của nàng sau này. Không chỉ vậy, nàng còn là nạn nhân của xã hội phong kiến phi nghĩa. Nàng lấy chồng chưa được bao lâu thì chiến tranh phong kiến đã chia cắt tổ ấm hạnh phúc của nàng. Một mình nàng gánh vác mọi công việc gia đình, vừa là một người mẹ hiền, vừa là một người con thảo. Xã hội với những hủ tục phong kiến lạc hậu, hà khắc ấy cũng đã khiến nàng mang tiếng là “thất tiết” và đẩy nàng đến đường cùng, điều đó chính là nguyên nhân cho cái chết của Vũ Nương.

Nhưng bi kịch lớn nhất của đời nàng là khi Trương Sinh trở về, chỉ vì câu nói vô tình của con nhỏ mà chồng đã nghi ngờ và khẳng định nàng thất tiết, lăng nhăng. Nàng có biện bạch, thanh minh bao nhiêu, hàng xóm nói giúp nàng đi chăng nữa, Trương Sinh vẫn bỏ ngoài tai và ghen tuông một cách mù quáng, hắn "lấy lời nói bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, rồi đánh đuổi đi".

Đến mức này, Vũ Nương đã quá đau khổ, thanh minh rằng: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.” Thật đau khổ và tủi nhục biết bao! Nàng không hiểu vì sao mình lại bị đối xử tàn nhẫn, bất công như vậy. Giờ đây “...bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Người vợ chờ chồng đằng đẵng suốt cả năm trời mà lại bị phủi phui hết những công lao và tình nghĩa thì cuộc đời còn gì ý nghĩa nữa đối với nàng Vũ Nương ấy?

Chính sự đa nghi và hồ đồ của Trương Sinh đã dồn nàng đến bi kịch đau đớn nhất cuộc đời: đó chính là cái chết oan nghiệt. Nàng đã tắm gội chay sạch, chạy ra bến Hoàng Giang và than với trời đất: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Và rồi, nàng gieo mình xuống dòng sông trong nỗi tuyệt vọng đắng cay.

Tất cả những tấn bi kịch của Vũ Nương như một lời tố cáo xã hội phong kiến, một xã hội xem trọng quyền uy của kẻ giàu và người đàn ông, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.

Như vậy, bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, miêu tả nhân vật , kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã giúp người đọc cảm nhận được những nét đẹp tâm hồn ở nhân vật Vũ Nương, vừa là một người vợ thủy chung, vừa một người mẹ thương con và một người con dâu hiếu thảo.

Qua đó, Nguyễn Dữ muốn gửi gắm sự ngợi ca, trân trọng đối với những người phụ nữ trong xã hội xưa. Quả thật, ngòi bút của ông chứa chan cái tâm cái tài của một nghệ sĩ lớn. Thời gian vẫn cứ trôi đi nhưng những trang viết của Nguyễn Dữ “nằm ngoài sự băng hoại của thời gian”, khẳng định được chỗ đứng của mình trong kho tàng văn chương dân tộc.

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 2

Phũ phàng chi bấy hóa công

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Trên chặng đường phát triển của văn hoc trung đại Việt Nam, ta bắt gặp không ít tác phẩm viết về nỗi niềm của người phụ nữ. Từ nỗi nhớ da diết, khắc khoải của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” tới niềm cô đơn, cay đắng của người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc”. Đến với thể loại truyền kì, tác phẩm tiêu biểu nhất viết về số phận người phụ nữ chính là “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.

Nguyễn Dữ sinh ra vào cuối thế kỉ XV và sáng tác chủ yếu ở đầu thế kỉ XVI. Có thời gian dài sống ở kinh đô nên ông được chứng kiến nhiều thăng trầm của xã hội, con người. Ông đã chọn truyện truyền kì – một thể loại văn xuôi kết hợp giữa hiện thực và kì ảo để phản ánh hiện thực đời sống, gửi gắm những tư tưởng nhân sinh của mình. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”, thuộc thiên thứ 16 của tập truyện “Truyền kì mạn lục”. Nhân vật chính là Vũ Nương được Nguyễn Dữ khắc họa đầy đủ cả về vẻ đẹp và số phận, tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Nguyễn Dữ đã đứng trên quan điểm nhân đạo để ngợi ca, đề cao những vẻ đẹp ở người phụ nữ, nhất là những người phụ nữ bình dân. Nhân vật Vũ Nương mang trong mình cả vẻ đẹp ngoại hình và phẩm chất vô cùng đáng quý. Nguyễn Dữ không dành quá nhiều câu chữ để tả chân dung Vũ Nương nhưng chỉ qua chi tiết nàng có “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” và Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”, người đọc vẫn có thể thấy rõ Vũ Nương là một người phụ nữ rất xinh đẹp. Ở nàng toát lên vẻ đằm thắm, hiền hậu của một người phụ nữ nơi thôn dã.

Đi liền với một dung mạo đẹp, Vũ Nương còn có những phẩm chất vô cùng đáng quý. Nhà văn đã đặt Vũ Nương vào những tình huống cụ thể để làm nổi bật tính cách, tâm hồn của nhân vật. Trong xã hội phong kiến, “Công – dung – ngôn – hạnh” được coi là thước đo chuẩn mực cho cốt cách của người phụ nữ. Vũ Nương mang trong mình đầy đủ những yếu tố ấy. Trong mối quan hệ vợ chồng, nàng là người vợ khéo léo, nhu mì, yêu thương chồng và thủy chung hết mực. Biết Trương Sinh có tính hay ghen, nàng luôn “giữ gìn khuôn phép” nên gia đình được yên ấm, chưa từng phải thất hòa. Hành động của Vũ Nương khi tiễn chồng đi lính đã cho thấy niềm khao khát hạnh phúc, tình yêu chân thành, tấm lòng nhân hậu mà Vũ Nương dành cho chồng. Người xưa có câu: “Một người làm quan, trăm họ được nhờ” nên ở xã hội xưa, có rất nhiều người coi việc tham gia chiến tranh là một cơ hội để đổi đời, thăng quan tiến chức. Ta đã từng bắt gặp trong “Chinh phụ ngâm” hình ảnh người vợ tiễn chồng ra trận với hi vọng đem về phú quý:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

Giã nhà đeo bức chiến bào

Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.

Nhưng ở đây, Vũ Nương không cầu mong vinh hiển. Nàng đã rót chén rượu đầy, dặn dò chồng bằng những lời tha thiết, cảm thông với nỗi vất vả của chồng, mong chàng trở về bình an. Trong những ngày Trương Sinh chiến đấu nơi sa trường, nàng càng bộc lộ là một người thủy chung, yêu chồng hết mực. Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn”, “mùa xuân mây che kín núi”, nàng lại chạnh lòng thương nhớ chồng.

Trong mối quan hệ với mẹ chồng và con cái, Vũ Nương còn là dâu thảo, mẹ hiền. Mẹ chồng già yếu, đổ bệnh nên nàng hết sức thuốc thang, thường xuyên lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Khi bà mất, nàng lo tang ma chu đáo, hiếu nghĩa tròn đầy. Mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu tưởng như mang tính chất ràng buộc, hiếm khi hòa thuận. Thế nhưng những lời trăng trối cuối cùng của mẹ chồng đã khẳng định công lao của Vũ Nương với gia đình chồng. Không chỉ vậy, khi là một người mẹ, Vũ Nương cũng hết sức thương con. Nàng một mình nuôi dạy con, chăm sóc nhà cửa. Nàng đã trỏ bóng mình trên tường và nói đó là người cha để an ủi, dỗ dành bé Đản khi thấy con trông ngóng cha. Qua những chi tiết trên, ta thấy Nguyễn Dữ đã dành cho nàng thái độ trân trọng, ngợi ca hết mực. Vũ Nương thực sư là người xinh đẹp, nết na, hiền hậu, đảm đang, có tấm lòng nhân hậu, hết mực yêu thương gia đình.

Với những nét đẹp trên, những tưởng Vũ Nương sẽ có một cuộc đời yên ấm, hạnh phuc nhưng ngờ đâu, số phận nàng lại là chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Vũ Nương vừa là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa vừa là nạn nhân của chế độ nam quyền. Vũ Nương sống vào thời kì đất nước loạn lạc, chiến tranh nổ ra liên miên, đời sống nhân dân cơ cực. Hoàn cảnh đất nước, thời đại chính là một phần nguyên nhân đem đến bất hạnh cho Vũ Nương, khiến vợ chồng chia lìa và đẩy nàng đến bi kịch về sau.

Không chỉ vậy, việc xuất thân là “con kẻ khó” còn khiến nàng bị mua bán như một món hàng qua “trăm lạng vàng”. Dẫu nàng có dịu dàng, đôn hậu đến bao nhiêu để thì trong gia đình vẫn ngầm tồn tại sự phân biệt giai cấp, trọng nam khinh nữ. Chế độ nam quyền đã sản sinh ra những người đàn ông gia trưởng, bảo thủ như Trương Sinh và trói buộc người phụ nữ vào cái khuôn “Tam tòng tứ đức”. Trước cơn thịnh nộ của Trương Sinh, Vũ Nương không thể phản kháng. Khi Trương Sinh trở về nghi ngờ nàng thất tiết nàng chỉ có thể khóc và thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng, nhắc nhở đến tình nghĩa vợ chồng. Vũ Nương chỉ biết chờ mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình. Dẫu Trương Sinh có mắng nhiếc, đánh đuổi, không cho cơ hội giãi bày, nàng cũng không hề oán giận. Họ hàng, làng xóm đứng ra bảo vệ Vũ Nương vẫn không thể cứu vãn gia đình nàng khỏi nguy cơ tan vỡ. Cuối cùng, nàng đau đớn, tuyệt vọng, chỉ còn cách mượn tạm nước sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. Nàng “tắm gội chay sạch” rồi ra bờ sông nói lời nguyện cầu mong thần linh chứng giám. Hành động này thể hiện cố gắng bảo vệ danh dự, tiết hạnh vô cùng mãnh liệt của Vũ Nương. Đối với nàng, lòng tự trọng là thứ quý giá còn hơn cả sinh mạng.

Tấm lòng son sắt của Vũ Nương còn được thể hiện vào sau khi nàng được Linh Phi cứu. Dù được sống cuộc đời an nhàn, bất tử nhưng lòng nàng lúc nào cũng hướng về quê hương, không nguôi mong nhớ về gia đình. Chi tiết nàng gặp lại Phan Lang dưới thủy cung và gửi chiếc thoa cho thấy tấm lòng vị tha, nhân hậu. Về sau, khi Trương Sinh đã tỉnh ngộ, Vũ Nương không một lời oán hận, trách móc: “Đa tạ tình chàng. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Lúc này, tất cả đã quá muộn màng. Nỗi oan khuất, đau khổ của Vũ Nương không phải là một số phận cá biệt mà là đại diện tiêu biểu cho biết bao phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo.

Với việc xây dựng được tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ đối thoại, chi tiết mang tính thắt nút và mở nút, xây dựng nhân vật đặc sắc cùng miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và kết hợp hài hòa giữa hiện thực và kì ảo, Nguyễn Dữ đã khắc họa chân thực về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Tác giả ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của họ và lên án, tố cáo xã hội phong kiến với chế độ nam quyền, sự phân biệt giai cấp và chiến tranh phi nghĩa đã tước đi hạnh phúc con người.

“Chuyện người con gái Nam Xương” đã vẽ nên bức tranh hiện thực sinh động và đặt ra vấn đề quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, ngòi bút nhà văn hướng về người phụ nữ và đưa họ vào vị trí trung tâm tác phẩm. Tác phẩm thực sự là “một áng “thiên cổ kỳ bút”, cho riêng thể loại truyện ngắn Việt nam một truyện ngắn vừa là đột khởi vừa là đỉnh cao vời vợi trong muôn đời.” (Nguyễn Đình Chú).

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 3

Hình ảnh người phụ nữ không còn quá xa lạ với nền văn học Việt Nam và đã có rất nhiều tác giả thành công khi khai thác đề tài này. Một trong những tác phẩm tiêu biểu chúng ta không thể không nhắc đến chính là Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ. Câu chuyện kể về người phụ nữ tên Vũ Nương tài sắc vẹn toàn nhưng có số phận vô cùng bi kịch.

Nguyễn Dữ được biết đến là nhà văn thời kì văn học trung đại với tác phẩm Truyền kì mạn lục bao gồm nhiều truyện ngắn tiêu biểu, đặc sắc. Một trong số đó ta không thể bỏ qua Chuyện người con gái Nam Xương. Dưới ngòi bút tài tình của mình, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình ảnh một người phụ nữ công dung ngôn hạnh, tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời lại vô cùng bất hạnh cùng cái chết oan uổng mà nàng phải gánh chịu không chỉ khiến người đọc thêm thương cảm cho nàng mà còn gián tiếp phê phán xã hội lúc bấy giờ - nơi mà người phụ nữ bị áp bức bởi những hủ tục, không có quyền đấu tranh vì hạnh phúc của chính mình.

Qua sự miêu tả của nhà văn Nguyễn Dữ, Vũ Nương trước hết là người phụ nữ xinh đẹp, công dung ngôn hạnh, với vẻ đẹp và đạo đức của nàng chắc hẳn chúng ta ai cũng sẽ thấy nàng xứng đáng có được một cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh - một chàng trai gia đình có điều kiện trong vùng nhưng lại có thói hay ghen tuông và ít học. Có thể thấy, chúng ta cũng đã dần mường tượng ra được cuộc sống ở nhà chồng của nàng, vinh hoa phú quý có nhưng nàng phải luôn sống dè dặt, thận trọng để tránh những va vấp trong cuộc sống gia đình với chồng. Vũ Nương là một người phụ nữ yêu chồng, yêu gia đình và là một người con dâu hiếu thảo. Biết chồng có tính hay ghen, nàng luôn giữ gìn đức hạnh của mình để gia đình hòa thuận. Ngày chồng ra trận, nàng vô cùng xúc động, không cần chồng mang vinh hoa phú quý, chỉ cần chồng bình an quay trở về bên mình, có thể thấy, đối với nàng, người chồng quan trọng hơn giá trị vật chất rất nhiều. Suốt những năm tháng xa chồng, nàng ở nhà một lòng một dạ vun vén gia đình, chăm sóc bố mẹ chồng hết lòng. Ngày họ qua đời, nàng lo ma chay tươm tất, hiếu thảo khiến ngay cả bố mẹ chồng cũng cảm mến trước tấm lòng thảo thơm. Những ngày chồng xa nhà, nàng mang thai và một mình sinh đẻ, nuôi con khôn lớn, biết con nhớ cha, nàng đành chỉ bóng mình trên tường và bảo với con đó là cha để con nguôi ngoai phần nào nỗi nhớ. Quả thực, vẻ đẹp cốt cách của Vũ Nương không một mĩ từ nào có thể lột tả hết.

Vò võ chờ đợi bao năm, niềm vui vỡ oà khi Trương Sinh trở về. Cuộc đoàn viên mừng tủi nghẹn ngào. Thế nhưng, hạnh phúc chưa kịp hiện hình thì tai hoạ đã ập đến. Vốn đa nghi, cộng với tâm trạng không vui khi trở về nhà thì mẹ đã mất, nên khi nghe lời nói của đứa con thơ nói rằng cha nó đêm nào cũng về thăm nó, mẹ đi cha cũng đi, mẹ ngồi cha cũng ngồi, chàng đã ngay lập tức cho rằng vợ mình đã thất tiết với người khác nên khi từ mộ mẹ về đến nhà, chàng đã không ngớt lời mắng nhiếc, trách móc nàng mà không cho nàng cơ hội được thanh minh. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Thế nhưng, nàng vẫn bị chồng mình đánh đuổi đi. Trong cái xã hội mà thân phận người phụ nữ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” thì không có bất cứ nơi nào cho nàng dung thân, kèm theo đó là sự rẻ bỉu, chê bai, khinh miệt từ xã hội, nàng không còn cách nào khác đành gieo mình xuống sông tự tử để bảo vệ danh dự, nhân phẩm và đức hạnh của mình. Thế là kết thúc một kiếp người đoan chính, hiếu hạnh một cách bất hạnh. Tuy nhiên, trời xanh có mắt, không cho nàng được hưởng hạnh phúc nhưng cho nàng cơ hội minh oan cho bản thân khi Phan Lang - một người cùng làng được Linh phi cứu xuống thủy cung đã hiểu câu chuyện của nàng và về khuyên nhủ Trương Sinh. Chàng Trương lập đàn cầu Vũ Nương trở về bằng thái độ ân hận về những việc mình đã gây ra cho vợ. Vũ Nương trở về, thoắt ẩn, thoắt hiện trên sông để minh oan cho mình rồi lại trở về với thủy cung - nơi mình thuộc về.

Câu chuyện có một kết thúc buồn nhưng cũng được coi là viên mãn đối với Vũ Nương. Bằng nghệ thuật dẫn dắt tài tình, nhà văn Nguyễn Dữ đã mang đến cho bạn đọc một câu chuyện vô cùng ý nghĩa, để lại nhiều ám ảnh trong lòng bạn đọc về hình ảnh người con gái Vũ Nương. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên vẹn được giá trị ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ độc giả cũng như góp phần làm cho nền văn học Việt Nam thêm phong phú, đa dạng màu sắc hơn.

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 4

Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm được đánh giá cao bởi sự đan xen hòa quyện giữa giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Nổi bật trong tác phẩm là một người phụ nữ đức hạnh, luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc nhưng bởi do những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt và sâu xa hơn là do chiến tranh gây ra đã khiến cái ước mơ bé nhỏ đó không trở thành hiện thực mà nó còn làm cho người phụ nữ đó rơi vào một tấn bi kịch không lối thoát. Người phụ nữ đó tên là Vũ Nương mang một nét tài sắc, nhưng lại mang một số phận đầy thảm thương, cay đắng.

Mở đầu tác phẩm, hình ảnh của Vũ Nương được tác giả thể hiện qua các câu văn biền ngẫu. Tác giả không nêu tư dung trước mà nêu phẩm giá, đức hạnh của người con gái đoan trang này. Đằng sau những câu văn tưởng chừng như thuật lại là một thái độ trân trọng ngợi ca. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, Vũ Nương lại được xuất hiện trong vẻ đẹp bình thường, giản dị, hoàn thiện, hoàn mỹ. Đó là một vẻ đẹp chuẩn mực trong xã hội phong kiến. Vũ Nương chính là hiện thân của vẻ đẹp truyền thống, muôn đời của người con gái Việt Nam. Chỉ bằng những miêu tả ngắn gọn, súc tích đã tạo lên một trường liên tưởng cho người đọc.

Dù xuất thân trong một gia đình nghèo, nhưng ở cô vẫn ánh lên bởi những phẩm chất cao quý mà không thấp hèn. Dù được gả vào một gia đình giàu có, nhưng không vì thế mà cô ham giàu sang, phú quý. Cuộc sống của cô trước và sau khi về nhà chồng vẫn thế, vẫn chăm chỉ làm lụng để không làm phụ lòng ai. Ai ai cũng đều yêu mến cô, ngay cả với mẹ chồng.

Vẻ đẹp của Vũ Nương không chỉ bởi nhan sắc bên ngoài, mà ngược lại nó lại được thể hiện rõ hơn qua phẩm chất, cách xử sự và tình cảm mà cô hết lòng dành cho gia đình nhỏ bé của mình.

Lấy chồng chẳng được bao lâu thì cô nghe tin chồng phải đi lính. Đây là tình huống đầu tiên mà tác giả đặt ra thử thách đối với cô. Không ham giàu sang phú quý, cô chỉ có một mong muốn nhỏ nhoi là được sống hạnh phúc bên gia đình. Khác hẳn với những người phụ nữ, mong muốn chồng đi lính để có thể thăng quan, tiến chức, nhưng Vũ Nương lại không muốn chồng ra chiến trường vì lo lắng cho an nguy của chồng. Lối nói ước lệ: “Nhìn trăng soi …đất thú” để diễn tả tâm trạng của người phụ nữ luôn lo lắng cho phu quân của mình. Đi lính ra chiến trường thì lành ít dữ nhiều. Ở đây, vẻ đẹp của Vũ Nương được ánh lên thông qua một tâm hồn trong sáng, không quen công danh, một người chỉ luôn hướng về chồng, lo lắng cho chồng và hết mực yêu thương.

Không chỉ đối với chồng, ngay cả đối với mẹ chồng cô cũng thực hiện tốt nghĩa vụ của một người con dâu, thay chồng chăm sóc mẹ, không để mẹ phàn nàn dù chỉ một tiếng. Cô coi mẹ chồng như mẹ ruột của mình và khi mẹ mất thì hết lời thương xót, ma chay tử tế như đối với mẹ đẻ của mình. Cô là một người con dân hiếu thảo, hiếm có.

Khi chồng ra chiến trường, mẹ chồng thì mất, một mình Vũ Nương chăm lo, quán xuyến hết việc trong gia đình. Cô vừa là cha, vừa là mẹ của con. Luôn chỉ dạy những điều hay lẽ phải cho con.

Trong câu chuyện, một lần nữa tác giả đặt nhân vật vào trong một tình huống hay cũng chính là bi kịch của cuộc đời cô. Chi tiết cái bóng chính là chi tiết đã làm nên bi kịch của cuộc đời cô. Vì muốn con được yêu thương, không muốn con bị thiếu thốn tình cảm mà mỗi đêm, cô chỉ lên trên bức tường, nơi có cái bóng của mình và bảo con trai: “Đây chính là bố của con”. Vì muốn con có bố, tránh sự tổn thương hay cũng là chỗ dựa vững chắc của Vũ Nương rằng chồng vẫn luôn ở bên, để tránh khỏi mọi lo toan, mệt nhọc, mọi khoảng cách đều bị xóa nhòa. Vì muốn hạnh phúc, vì muốn con được có bố khi bố ra trận, vì muốn có chỗ dựa cho chính mình mà Vũ Nương đã bảo với đứa trẻ ngây dại cái bóng là bố của mình. Để rồi, khi người chồng trở về, do nghe lời con nhỏ mà đã đưa vợ mình vào bước đường cùng. Phải lấy cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.

Làm sao có thể tưởng tượng rằng, người phụ nữ luôn ngày đêm chờ ngóng chồng về, mong chồng về để gia đình trở nên hạnh phúc, thế mà giờ đây lại thành ra như vậy? Bao năm tháng qua, đến khi chồng về, cô sẽ có chỗ dựa vững chắc, để không phải một thân chăm sóc con. Vậy mà giờ thì sao đây?

Chiến tranh, chính là chiến tranh là nguyên nhân sâu xa đã khiến cho vợ chồng Vũ Nương chia tay và gây ra tấn bi kịch này. Chiến tranh đã khiến con người ta trở nên đa nghi, để một người cha thà nghe đứa trẻ con ngây dại nói chứ không chịu nghe người vợ tần tảo sớm hôm, nghe những người hàng xóm xung quanh để rồi Vũ Nương đã phải đắm mình xuống sông tự vẫn.

Cái chết để chứng minh sự trong sạch, để rửa oan và khẳng định danh tiết cho mình, cái chết để quên đi mọi thứ của thực tại. Nhưng nguyên nhân nào đã khiến cho một người luôn khao khát mãnh liệt sự sống, mưu cầu hạnh phúc phải chết? Là do cái ngây thơ của trẻ con, do cái thói ghen tuông mù quáng, do lễ giáo phong kiến hay do chiến tranh gây nên. Nhưng có lẽ, cái lối hành xử của Trương Sinh đem đến chính là sản phẩm của lễ giáo phong kiến gây ra.

Nhân vật Vũ Nương chính là linh hồn của câu chuyện. Nhà văn đã thể hiện vẻ đẹp, phẩm chất của Vũ Nương thông qua việc thể hiện vẻ đẹp và phẩm chất trong sáng của cô. Qua việc miêu tả hình ảnh của nhân vật Vũ Nương nhằm nhận ra được tấn bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Một bi kịch không thể tránh khỏi mà thủ phạm gây ra cái chết oan ức cho cô… lại là chế độ phong kiến. Hơn thế nữa tác giả còn thể hiện cái nhìn đồng cảm, xót thương trước số phận của Vũ Nương nói riêng và của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 5

Nguyễn Dữ sống trong gian đoạn loạn lạc ở thế kỉ XVI, người tỉnh Hải Dương, là học trò xuất sắc của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy học rộng, tài cao nhưng ông tránh vòng danh lợi, chỉ làm quan một năm rồi về sống ẩn dật ở quê nhà. Sáng tác của ông thể hiện cái nhìn rất tích cực đối với văn học dân gian. Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương trích từ Truyền kì mạn lục, thuộc thể loại truyền kì. Số phận bi kịch của nhân vật Vũ Nương có sức khái quát lớn. Đây không chỉ là câu chuyện về số phận thương tâm của một người phụ nữ mà còn là tấm lòng yêu thương trân trọng của tác giả dành cho những người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp trong xã hội phong kiến bấy giờ.

Vũ Nương tên là Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Nàng là người con gái “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Điều này cho thấy nàng có vẻ đẹp rất lí tưởng, xứng đáng có cho mình một hạnh phúc viên mãn, một cuộc đời tốt đẹp. Trương Sinh, một người con nhà hào phú, vì mến “dung hạnh” mà “ xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ”.

Biết tính chồng hay ghen, thế nên, trong cuộc sống vợ chồng, nàng hết mực “giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”. Không những nghĩa phu thê bền chặt mà đạo làm con nàng cũng hết sức chu toàn. Trái ngược với nàng, Trương Sinh lại là một người chồng bất hảo. Chàng tuy con nhà giàu nhưng lại ít học, tính tình đa nghi, độc đoán, đổi với vợ phòng ngừa quá sức”. Ỷ vào gia thế, Trương Sinh tỏ ra xem thường vợ mình. Tính cách ấy tiềm ẩn những nguy cơ gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình, dự báo bi kịch về sau mà nhân vật sẽ gây ra cho Vũ Nương.

Nguyễn Dữ đã dành những lời lẽ đẹp đẽ ca ngợi phẩm chất tốt đẹp và tấm lòng trung trinh của người phụ nữ. Trước hết, ở nhân vật Vũ Nương ta nhận thấy, nàng là một người vợ hết mực thương chồng, sống trọn đạo vợ chồng. Lúc còn ở bên nhau, nàng toan lo mọi bề, tất cả đều chu toàn, cặn kẽ. Chiến tranh xảy ra chia cắt tình cảm gia đình. Ngày Trương Sinh lên đường, nàng rót chén rượu tiễn đưa, nói không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng được bình an trở về: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xỉn ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên.

Tình thương chồng của nàng còn thể hiện qua sự chia sẻ trước những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng cũng như niềm cảm thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con. Thay chồng, nàng làm mọi việc nhà chu toàn, giữ gìn tiết hạnh. Lại còn ngày đêm mong ngóng tin xa, mong ngày đoàn viên sum họp. Nỗi buồn nhớ của nàng khắc khoải triền miên, dài theo năm tháng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khỉ thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thế nào ngăn được. Tấm lòng sắc son ấy khẳng định, đối với Vũ Nương, nghĩa vợ chồng bao trùm lên các giá trị của cuộc đời nàng.

Vũ Nương còn là một con dâu hiếu thuận, lễ nghĩa, hết sức chu toàn. Nàng đã thay chồng gánh vác việc nhà, trọn đạo dâu con, tận tình chăm sóc mẹ già. Lúc nào nàng cũng dịu dàng, ân cần “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn Những lúc bà yếu đau nàng lo lắng thuốc thang, cầu khấn thần phật. Đến khi mẹ chồng mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo như đối với cha mẹ đẻ mình”. Phẩm hạnh tuyệt vời của nàng đã được chính mẹ chồng ghi nhận bằng những lời nói chân thành và vô cùng tốt đẹp: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giồng dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, trời xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

Nàng là người mẹ đảm đang, tận tụy, một mình chu đáo nuôi con nhỏ. Sợ con buồn khi thiếu vắng cha, nàng đã chỉ bóng mình trên vách để nói với con đó là cha. Nào ai ngờ đó lại là khởi nguồn bi kịch cho nàng.

Vũ Nương là người giàu lòng tự trọng. Khi nàng bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Tuyệt vọng không cùng, Vũ Nương đành mượn dòng nước con sông Hoàng Giang sâu thẳm để rửa sạch tiếng nhuốc nhơ oan ức.

Vò võ chờ đợi bao năm, niềm vui vỡ oà khi Trương Sinh trở về. Cuộc đoàn viên mừng tủi nghẹn ngào. Thế nhưng, hạnh phúc chưa kịp hiện hình thì tai hoạ đã ập đến. Vốn đa nghi, cộng với tâm trạng không vui khi trở về nhà thì mẹ đã mất, nên khi nghe lời nói của đứa con thơ (một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi), chàng đã ngay lập tức “đinh ninh là vợ hư hỏng”, thất tiết với người khác. Trong chàng “mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Bởi thế, khi về đến nhà, chàng đã: “la um lên cho hả giận mặc cho: “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng” vẫn không cho Vũ Nương cơ hội để minh oan.

Vũ Nương không hiểu chuyện gì, nàng hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình khi nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trăng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một Tô son điểm phân đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như chàng nói”. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Thế nhưng, nàng vẫn bị chồng mình “mắng nhiếc và đánh đuổi Những lời nói cuối cùng của nàng thâu tóm tất cả những ngang trái của một đời phụ nữ: công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích; hạnh phúc gia đình (thú vui nghi gia nghi thất) tan vỡ, tình cảm vợ chồng không còn (bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió), cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa.

Thẳm sâu trong tâm khảm của nàng vẫn là ước muốn được đoàn viên, được quay trở về dù chỉ một lần với chồng con, với cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày xưa. Cuộc hội ngộ cùng Phan Lang ở Thủy Cung đem lại cho Vũ Nương cơ hội trở về và giải oan. Vũ Nương ứa nước mắt mà nói rằng “Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nôi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng “ứa nước mắt khóc… nàng cũng nhờ anh “nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở “. Thế nhưng, nàng chỉ trở về trong thoáng chốc để rồi ra đi mãi mãi”.

Hình ảnh người thiếu phụ Nam Xương hiện lên lần cuối cùng trong truyện đẹp như mơ. Lộng lẫy, khác xưa, Vũ Nương trở lại dương thế, rực rỡ, uy nghi nhưng xa vời ẩn lúc hiện với lời từ tạ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Dù chàng có gọi thì nàng vẫn chỉ thấp thoáng ở giữa dòng sông rồi “trong chốc lát, bóng nàng loang loảng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.

Vũ Nương không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi và trần thế không còn chỗ nào cho người như nàng nương tựa. Đàn giải oan chỉ có thể khôi phục danh dự cho nàng chứ không thể làm sống lại tình xưa. Giữa Vũ Nương và Trương Sinh, dòng sông là nơi giải oan, nơi tái ngộ, nhưng không thể vượt qua.

Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ngay trong cái lung linh ki ảo, sắc thái bi đát vẫn nằm sau hình ảnh rực rỡ của truyền kì. Điều đó một lần nữa khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới. Phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cổ tích chưa có.

Nhân dân đã có biết bao lời tỏ bày niềm xót xa đối với thân phận nhỏ bé, khổ đau, bất hạnh, không danh phận gì trong xã hội của người phụ nữ:

– Thân em như dải lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Hay:

– Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

Đó là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng, nữ tính, nhưng cũng có chút rụt rè, khiêm nhường của người ý thức được vị thế thấp hèn của mình trong xã hội. Họ co nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng không có quyền quyết định các các giá trị của mình. Số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội. Thật đáng thương thay.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài Bánh trôi nước cũng đã có lời cảm thán đầy hẩm hiu:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.

(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)

Cuộc đời chìm nổi truân chuyên phải chăng là kiếp đời mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải gánh lấy. Rắn” hay “nát”, hành phúc hay khổ đau là hoàn tòn do “tay kẻ nặn” chứ họ không có quyền lựa chọn, tự định đoạt hay tự quyết cuộc đời mình. Cuộc đời bất công đến thế nhưng họ vẫn quyết “giữ tấm lòng son”, sống trung trinh, thủy chung, không hề oán trách.

Ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và bệnh vực người phụ nữ nhiều nhà văn, nhà thơ khác cũng đã đồng thời lên tiếng. Với tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã ngợi ca, trân trọng nhan sắc, tài năng, phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều như là những chuẩn mực, hình mẫu lí tưởng cho vẻ đẹp của con người mọi thời đại (Chị em Thúy Kiều). Nơi lầu xanh, tác giả đã khắc họa nỗi nhớ của Thúy Kiều đi liền với tình thương – một biểu hiện rất đáng trân trọng của đức hi sinh, lòng vị tha, chung thủy (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Thiên tài Nguyễn Du cũng không quên gây ấn tượng cho người đọc với hình ảnh Thúy Kiều sống sâu nặng ân tình, sắc sảo, kiên quyết nhưng vẫn đầy khoan dung, độ lượng (Kiền hảo ân báo oán).

Bếp lửa của Bằng Việt lại xây dựng đầy cảm động hình ảnh người bà với tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút, thái độ bình tĩnh, vững lòng. Người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu vượt qua mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh.

Người phụ nữ đi qua chiến tranh được khắc họa trong Những ngôi sao xa xôi lại càng đẹp hơn trong hình ảnh các cô thanh niên xung phong sống có tinh thần trách nhiệm cao, quyết tâm hoàn thành tốt mọi công việc được giao; anh dũng không sợ gian khổ, hi sinh; luôn trẻ trung, yêu đời; sống chan hòa, yêu thương nhau và luôn tin tưởng, lạc quan về thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Có lẽ vì vậy là không thể bỏ qua Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê trong những tác phẩm ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Những tác phẩm trên đã giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, cũng như thấm thìa hơn tình cảm của tác giả thể hiện trong từng nhân vật.

Với sự sáng tạo cao về khắc họa nhân vật Vũ Nương, cách kể chuyện lôi cuốn, xây dựng kết thúc truyện li kì, kết hợp cùng việc khai thác vốn văn học dân gian và sử dụng tinh tế những yếu tố kì ảo; Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã bày tỏ sự cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Hơn hết, tác phẩm đã khẳng định nét đẹp tâm hồn của họ, cất lên tiếng nói cho bao mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp, công bằng mà họ hằng hi vọng. Chỉ với nội dung sâu sắc ấy, Chuyện người con gái Nam Xương đã đi vào quỹ đạo nhân văn chung của văn học dân tộc, tạo được sự cộng hưởng với nhiều tác phẩm viết về người phụ nữ cũng như kết nối bền chặt cùng tâm hồn người đọc bao thế hệ.

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 6

Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc sống ở thời kì chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương và nhân vật Vũ Nương.

Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con gái thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên.

Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người mẹ mất, nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy khẳng định công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia đình: “Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ”.

Thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, Vũ Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự của mình. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.

Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ, phản ánh bi kịch chung về số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Truyện đã in sâu đậm vào trái tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 7

Đề tài về người phụ nữ chính là mảng đề tài quen thuộc trong thơ ca, đặc biệt là các tác phẩm trung đại. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm chính là những cây bút tiêu biểu cho mảng đề tài này. Bên cạnh đó, Nguyễn Dữ cũng là một gương mặt tiêu biểu với những câu chữ viết về người phụ nữ đầy giá trị nhân văn.

Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương.

Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con gái thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau.

Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Ta thấy Vũ Nương quả là một người vợ hiền, có ý thức giữ gìn hạnh phúc gia đình. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà luôn khao khát hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiểu, thông cảm cho nỗi vất vả gian lao của chồng: chỉ e việc quán khó liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao...

Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thuỷ chung: nhìn trăng soi thành của, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa...

Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người mẹ mất, nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy tác giả đã gửi gắm tình hình của mình đối với nhân vật Vũ Nương, khẳng định công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia đình: Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ.

Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả ghen, không cho vợ được thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, vì mất danh dự, Vũ Nương hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ bằng những lời than thấu tận trời xanh: Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.

Thế nhưng, lời lẽ không làm lung lay được thói độc đoán, gia trưởng hồ đồ của người chồng có máu ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phải đau đớn, thất vọng đến tột cùng vì bị đối xử bất công, vì bất lực không có khả năng bảo vệ danh dự, niềm khát khao hạnh phúc gia đình bị tan vỡ: Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.

Thế nhưng, lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi án oan nghiệt ngã. Là một người phục nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, Vũ Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự chứ không chịu sống nhục. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.

Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy những cố gắng hết sức nhưng không thành của một người phụ nữ, để rồi phải chấp nhận số phận và nàng đã phải giải thoát kịch của cuộc đời mình bằng cái chết oan khuất. Sự việc này đã đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm của sự việc. Đến khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng sự việc hết sức ngẫu nhiên mà hợp lí. Đó là khi bé Đản chỉ Trương Sinh cái bóng trên tường chính là cha của mình. Điều đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến, chỉ một cái bóng cũng có thể quyết định số phận một con người, đẩy người phụ nữ nết na bất hạnh vào bi kịch không lối thoát.

Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ. Thông qua bi kịch của Vũ Nương, nhà văn phản ánh bi kịch chung về số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Những người phụ nữ ấy nết na, đức hạnh như bị đối xử bất công, vô nhân đạo không có quyền sống hạnh phúc, không được che chở, bảo vệ số phận vô cùng mỏng manh, yếu ớt. Có lẽ vì thế mà truyện đã in sâu đậm vào trái tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 8

Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương.

Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con gái thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau.

Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Ta thấy Vũ Nương quả là một người vợ hiền, có ý thức giữ gìn hạnh phúc gia đình. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà luôn khao khát hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiểu, thông cảm cho nỗi vất vả gian lao của chồng: chỉ e việc quán khó liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao...

Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thuỷ chung: nhìn trăng soi thành của, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa...

Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người mẹ mất, nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy tác giả đã gửi gắm tình hình của mình đối với nhân vật Vũ Nương, khẳng định công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia đình: Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ.

Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả ghen, không cho vợ được thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, vì mất danh dự, Vũ Nương hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ bằng những lời than thấu tận trời xanh: Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.

Thế nhưng, lời lẽ không làm lung lay được thói độc đoán, gia trưởng hồ đồ của người chồng có máu ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phải đau đớn, thất vọng đến tột cùng vì bị đối xử bất công, vì bất lực không có khả năng bảo vệ danh dự, niềm khát khao hạnh phúc gia đình bị tan vỡ: Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.

Thế nhưng, lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi án oan nghiệt ngã. Là một người phụ nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, Vũ Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự chứ không chịu sống nhục. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.

Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy những cố gắng hết sức nhưng không thành của một người phụ nữ, để rồi phải chấp nhận số phận và nàng đã phải giải thoát kịch của cuộc đời mình bằng cái chết oan khuất. Sự việc này đã đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm của sự việc. Đến khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng sự việc hết sức ngẫu nhiên mà hợp lý. Đó là khi bé Đản chỉ Trương Sinh cái bóng trên tường chính là cha của mình. Điều đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến, chỉ một cái bóng cũng có thể quyết định số phận một con người, đẩy người phụ nữ nết na bất hạnh vào bi kịch không lối thoát.

Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ. Thông qua bi kịch của Vũ Nương, nhà văn phản ánh bi kịch chung về số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Những người phụ nữ ấy nết na, đức hạnh như bị đối xử bất công, vô nhân đạo không có quyền sống hạnh phúc, không được che chở, bảo vệ số phận vô cùng mỏng manh, yếu ớt. Có lẽ vì thế mà truyện đã in sâu đậm vào trái tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 9

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Một người phụ nữ thủy chung son sắt, thùy mị dịu hiền, hết lòng vì gia đình nhà chồng – đó có lẽ là những đức tính đáng trân trọng của Vũ Nương. Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương giúp chúng ta xót thương cho thân phận những người phụ nữ xưa…

Vũ Nương là hình tượng về người phụ nữ thùy mị nết na và chung thủy

Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Vũ Nương. Ông đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ được phẩm chất của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu thảo với cha mẹ chồng đồng thời cũng hết mực thủy chung son sắt. Khi phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương, ta thấy trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn khuôn phép, không khi nào để vợ chồng phải đến thất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng có tính hay ghen tuông.

Thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động, khi Vũ Nương tiễn chồng đi lính. Thông thường thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có được công danh vẻ vang mang về để vinh hiển với mọi người. Nhưng còn đối với Vũ Nương thì lại không như vậy. Nàng chẳng mong Trương Sinh vinh hiển với tước trọng quyền cao mà chỉ cầu chồng được binh yên trở về. Nàng còn cảm thông với những vất vả, gian lao mà chồng mình sẽ phải chịu đựng. Nàng nói đến nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình, bằng những lời rất ân cần, đằm thắm tình cảm.

Người phụ nữ son sắt, chăm lo vẹn toàn cho gia đình khi chồng đi lính

Khi xa chồng. Vũ Nương lại là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo năm tháng, lúc thì tựa “bướm lượn đầy vườn”, có khi lại như “mây che kín núi”. Tác giả đã dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương để thấy nàng vừa là người con dâu hiếu thảo lại vừa là người mẹ hiền. Nàng một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng lúc đau ốm. Nàng lo thuốc thang, cầu khấn phật trời….

Không chỉ vậy, Vũ Nương lúc nào cũng ân cần, dịu dàng, lấy lời ngon ý ngọt khéo léo khuyên mẹ gắng dưỡng sức để chờ Trương Sinh quay trở về. Vì thế cho nên trước khi mẹ chồng nhắm mắt, bà đã nói với Vũ Nương rằng Vũ Nương là người con dâu tốt và khi Trương Sinh trở về ắt sẽ không phụ lòng tốt của nàng. Rồi nàng cũng hết sức thương xót mẹ và lo ma chay tế lễ như lo cho cha mẹ ruột của mình.

Khi phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương, ta cũng thấy tình cảnh ấy dường như không phải chỉ riêng của Vũ Nương mà còn là số phận chung của biết bao nhiêu người chinh phụ xa chồng. Trong “Chinh phụ ngâm”, khi người chồng ra đi, người vợ ở nhà cũng lo toan mọi chuyện “Dạy con đèn sách, thiếp làm hiếu nam”. Từ đó, ta càng thấy cảm thông, thấu hiểu và yêu thương hơn những người phụ nữ phải chịu số phận làm chinh phụ, ngày ngày đều chỉ biết ngóng trông và mong cầu bình yên cho người chồng của mình.

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương qua bi kịch số phận nàng

Tưởng rằng khi Trương Sinh trở về thì Vũ Nương sẽ được đền đáp, được sống ngập tràn trong niềm vui và hạnh phúc, tưởng như nàng có thể chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng. Nhưng không, ai có thể ngờ nàng lại phải chịu một nỗi oan khuất không tài nào thanh minh nổi, mặc dù nàng đã hết lời phân trần tấm lòng son sắt thủy chung của mình cho chồng hiểu.

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương để thấy khi nàng nói đến thân phận mình nghèo được nương nhờ nơi giàu có, nàng trân trọng tình nghĩa vợ chồng bao năm và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Như vậy đã chứng tỏ nàng đã tìm mọi cách nhằm hết sức cứu vãn, mong hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.

Sau nữa nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có họ hàng, anh em đến nói giúp. Hạnh phúc gia đình – niềm khát khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ, mong manh biết dường nào. Tất cả những nỗi đau khổ chờ chồng trước đây không còn có thể làm lại được nữa. Số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến sao mà đau thương, đoạn trường đến thế!

Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được, Vũ Nương đành phải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho mình. Những lời than trước khi vĩnh viễn cuộc đời đầy đau khổ của mình nhưng cũng đầy luyến tiếc, như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng.

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương trong đoạn truyện này, người đọc nhận thấy tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính: Vũ Nương bị đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trầm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí.

Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận. Bởi Vũ Nương vốn là một người phụ nữ xinh đẹp nết na thùy mị, hiền thục, lại đảm đang tháo phát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ chung thủy với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Vậy nguyên nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn ấy?.

Có phải chăng vì cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương không bình đẳng? Chính sự cách bức về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã cộng thêm cái thế cho Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người đàn ông gia trưởng trong chế độ phong kiến. Hay đó là những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chứa đầy những dữ kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh một người chồng hay có tinh đa nghi ghen tuông, hồ đồ và độc đoán kia trở thành kẻ thô bạo, vũ phu và bức tử vợ mình trong sự mù quáng. Hay kẻ giết người lại hoàn toàn vô can trong vụ án?

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương để thấy bi kịch của nàng chính là lời tố cáo cái xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của đàn ông trong gia đình. Đồng thời, qua đó Nguyễn Dữ cũng bày tỏ niềm thương cảm của mình đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ bất hạnh ở đây không những không được bênh vực, che chở mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hơi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của người chồng ghen tuông mà phải kết thúc cuộc đời mình.

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương khi đã được giải oan

Phần cuối truyện đầy những chi tiết mang đậm tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng, rồi Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết đuối, xác dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, lấy thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa.

Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương, ta thấy hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện… là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo đương thời.

Nhận xét về kết thúc truyện khi phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương

Khi gặp lại Phan Lang dưới thủy cung, Vũ Nương vẫn rất tự trọng và mong muốn được giải oan mà nhờ Phan Lang gửi lời đến Trương Sinh. Để rồi đến khi hiện về bên dòng Hoàng Giang, nửa câu trách móc Trương Sinh, nàng cũng không hề thốt ra mà lại còn cảm tạ vì đã giúp nàng lập đàn giải oan. Câu nói của hồn Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” nghe sao đầy xót xa, thương cảm mà cũng thật vị tha, bao dung.

Và rồi, hình bóng nàng dần dần biến mất. Nhưng Vũ Nương vẫn mãi là người phụ nữ yêu chồng, thương con, người phụ nữ hiếu thảo, thủy chung và cũng là người phụ nữ phải chịu số phận bất hạnh, oan khiên. Chính chi tiết này đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa nhưng âm dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa… Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ!

Đến đây, người đọc như nghe thấy vọng lại những lời thơ của Nguyễn Du về thân phận của kiếp hồng nhan bạc mệnh:

“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

Ta cũng có thể thấy bi kịch của Vũ Nương không phải là hiện tượng cá biệt mà là bi kịch chung của người phụ nữ thời phong kiến. Vì người phụ nữ luôn phải chịu số phận lận đận, long đong:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”

(“Bánh trôi nước” – Hồ Xuân Hương)

Vì những cuộc chiến tranh phi nghĩa cứ diễn ra liên miên, mặc nhân dân thống khổ, lầm than, mặc bao bi kịch vẫn cứ tiếp diễn và đè nặng lên thân phận người phụ nữ:

“Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.”

Và có lẽ đau đớn nhất là tiếng khóc nhân đạo cho số kiếp bạc mệnh của những phận hồng nhan được Nguyễn Du thống thiết cất lên:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

Nguyễn Dữ đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương để khắc họa vẻ đẹp và cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác giả đã tô điểm rất nhiều vẻ đẹp từ ngoại hình đến nhân cách cho nhân vật. Lời văn có sự kết hợp giữa văn phong cổ điển và tình cảm nhân đạo chân thành của Nguyễn Dữ.

Không chỉ vậy, khi phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương, ta thấy tác giả còn khéo léo đan xen những chi tiết hiện thực và kỳ ảo nhằm làm tăng giá trị nhân đạo cho tác phẩm. Nhờ đó mà cuộc đời Vũ Nương trở thành minh chứng cho bao kiếp tài hoa bạc mệnh trong xã hội cũ và rồi trở thành hình ảnh tổng quát cho người phụ nữ Việt Nam đương thời. Chẳng vì vậy mà nhà nghiên cứu Vũ Khâm Lân đã đánh giá “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một áng “thiên cổ kỳ bút”.

Kết bài: Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái công dung ngôn hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng áng văn “Chuyện người con gái Nam Xương” vẫn giàu giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội phong kiến. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài “Lại bài viếng Vũ Thị”:

“Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng.”

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 10

Trong văn học dân gian và văn học viết của nước ta, người phụ nữ bình dân đã nêu cao những giá trị cao đẹp về đạo đức, phẩm chất. Nhưng sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái, họ phải chịu nhiều đau khổ và bất hạnh. Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương Vũ Thị Thiết phải chịu nỗi oan khuất và để giải nỗi oan, nàng đã tìm đến cái chết thật thương tâm.

Nguyễn Dữ giới thiệu với ta nhân vật Vũ Nương - một phụ nữ đẹp người, đẹp nết. Nàng có tư dung đẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na. Khi làm vợ Trương Sinh, một người chồng có tính đa nghi, nàng vẫn giữ gìn khuôn phép để không xảy ra cảnh bất hoà. Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. “Nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự”. Nguyện vọng của nàng thật giản dị mà sâu sắc.

Mấy năm chồng đi xa, ở nhà một tay nàng lo toan mọi công việc gia đình, nuôi con từ trứng nước đến khi lớn khôn. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo rất mực, khi mẹ chồng đau ốm nàng “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi bà cụ qua đời, nàng hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ chu toàn. Sự ăn ở đối xử hết lòng với mẹ chồng chẳng khác nào đối với cha mẹ mình vậy. Tóm lại, Vũ Nương là một phụ nữ vẹn toàn, thể hiện được những phẩm chất đạo đức cao quý của người vợ, người mẹ, người con. Con người như vậy đáng ra phải được hưởng hạnh phúc đầm ấm của gia đình.

Chiến tranh chấm dứt, chồng trở về, niềm vui chưa trọn vẹn thì bi kịch xảy ra. Trương Sinh - một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi, hay ghen đã nghe lời đứa con ngây thơ, không dò hỏi ngọn ngành, nghi ngờ vợ mình không chung thủy. Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng Trương Sinh một mực vẫn buộc tội vợ, thậm chí còn mắng nhiếc, đánh, đuổi nàng đi. Họ hàng, làng xóm đều biện minh cho nàng nhưng cũng không thay đổi được thái độ của Trường Sinh. Không còn cách nào để minh oan được nữa, nàng chọn cái chết để giãi bày tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Thật tội nghiệp cho Vũ Nương, ba năm trời cách biệt vẫn giữ gìn một tiết, ấy mà khi chồng trở về lại bị nghi oan, một con người phẩm hạnh như thế, lại mang tiếng nhuốc nhơ. Bi kịch bị dồn nén đến cao độ, trong cảnh ngộ đó, Vũ Nương chỉ có một con đường tìm đến cái chết. Thương Vũ Nương, người đời càng trách giận Trương Sinh phũ phàng:

Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng

("Lại bài Viếng Vũ Thị”của Lê Thánh Tông)

Và ngay cả khi chết rồi, ở dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng ruồng rẫy, nàng nghĩ: “Thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa”. Nhưng có lúc nàng lại băn khoăn: “Không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa”. Nàng mong muốn thiết tha trở về quê hương đoàn tụ với chồng và để giải được nỗi oan. Nhưng âm dương cách biệt nàng “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”.

Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ đức hạnh, hiền thục như Vũ Nương đều chịu chung số phận bi đát. Câu chuyện về cái chết thương tâm của Vũ Nương càng làm cho ta thông cảm với những nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tác phẩm còn là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đôi, gia đình. Trong một xã hội mà quyền sống con người được tôn trọng như xã hội ta ngày nay, những người phụ nữ có nhan sắc, phẩm hạnh như nàng Vũ Thị Thiết chắc chắn sẽ sống cuộc đời hạnh phúc.

Từ một câu chuyện lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tác nên một tác phẩm đặc sắc. Mặc dù có ít nhiều yếu tố hoang đường nhưng “Chuyện người con gái Nam Xương” đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không phai mờ.

--------------------------------------------

Ngoài Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, mời các bạn tham khảo thêm Soạn văn 9 trên VnDoc để có sự chuẩn bị bài kỹ lưỡng trước khi đến lớp nhé.

Đánh giá bài viết
94 173.890
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 9

    Xem thêm