Thuyết minh về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Văn mẫu lớp 9: Thuyết minh về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ được VnDoc.com tổng hợp và đăng tải. Tài liệu bao gồm dàn ý và 5 bài văn mẫu hay lớp 9 cho các em tham khảo, có thêm nhiều vốn từ và ý tưởng hay để triển khai bài văn Thuyết minh về tác giả Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương. Sau đây mời các bạn tham khảo chi tiết.

Dàn ý Thuyết minh về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh: tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. (Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm vô cùng tiêu biểu của tác giả Nguyễn Dữ, để hiểu hơn về tác phẩm hãy cùng nhau tìm hiểu chi tiết hơn nhé).

2. Thân bài

a. Thuyết minh khái quát chung

Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi truyện của tập Truyền kì mạn lục - ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền.

Là một câu chuyện nổi tiếng được nhiều người biết đến, giàu giá trị nội dung và nghệ thuật.

Nhân vật: Vũ Nương, Trương Sinh, Phan Lang, bé Đản,…

b. Thuyết minh chi tiết

Nhân vật chính: Vũ Nương - người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng bị xô đẩy vào oan khuất, bất hạnh.

Trương Sinh: chồng của Vũ Nương, người trực tiếp đẩy nàng đến bi kịch.

Bé Đản: con trai của Vũ Nương và Trương Sinh, nguyên nhân khiến Trương Sinh nghi ngờ vợ.

Phan Lang: cầu nối để Vũ Nương gặp lại Trương Sinh và để Trương Sinh hối lỗi với nàng.

Tiến trình: câu chuyện được kể theo trình tự thời gian.

c. Nội dung, nghệ thuật câu chuyện

Nội dung: số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến đồng thời thể hiện phẩm giá cao quý của họ.

Nghệ thuật: kết hợp tự sự và trữ tình, nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật.

3. Kết bài

Câu chuyện góp phần không nhỏ vào việc làm phong phú kho tàng văn chương của nước ta.

Thuyết minh về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ mẫu 1

Trong những tác phẩm tự sự đã từng học, tác phẩm để lại cho em nhiều ấn tượng nhất là Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Đây là tác phẩm giàu giá trị nhân văn viết về đề tại được quan tâm của xã hội thời bấy giờ: Người phụ nữ.

Truyền kì mạn lục của Nguyên Dữ được viết bằng chữ Hán, trong đó Chuyện người con gái Nam Xương ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.

Vũ Thị Thiết - người con gái quê ở Nam Xương thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì đức hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu sau Trương Sinh phải đi lính. Nàng đang có mang, xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm sau, mẹ chàng vì già yếu và nhớ thương con đi lính, rồi lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săm sóc, cơm cháo thuốc men. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ mình. Qua năm sau, giặc đã chiu lui, Trương Sinh trở về. Con trai đã vừa học nói nhưng chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con đã dẫn đến Trương Sinh hiểu lầm rằng vợ mình đã thay lòng đổi dạ. Trương Sinh nhiếc mắng, đuổi nàng đi. Nàng thanh minh cho mình, rồi hàng xóm bênh vực nhưng không được. Trước cảnh đau buồn đó, Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang mà tự vẫn. Nàng chết rồi một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói: Cha Đản lại đến kìa. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ biết vợ mình chết oan. Lại nói về chuyện Phan Lang đã cứu Linh Phi - vợ vua biển Nam Hải. Thế rồi Phan Lang không may đắm thuyền chết, được Linh Phi cứu cứu giúp, chữa trị, đền ơn. Trong cuộc hành trình thăm động của Linh Phi, Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương. Nàng gửi về cho Trương Sinh một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan... Phan Lang trở về kể chuyện cho Trương Sinh. Vũ Nương hiện lên đa tạ tình chàng nhưng nàng không thể trở về trần gian được.

Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho lứa đôi phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân bản sâu sắc.

Với nghệ thuật điêu luyện, bố cục chặt chẽ, chi tiết hoang đường; chi tiết gợi mở, thắt nút cởi nút câu chuyện tài tình, giải quyết câu chuyện nhanh chóng, bất ngờ, kết thúc có hậu,... Chuyện người con gái Nam Xương đã khẳng định được nét đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và bi kịch. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Qua Truyền kì mạn lục, người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Cảm ơn tác giả, cảm ơn tác phẩm đã nhìn người phụ nữ với đôi mắt cảm thông, đầy giá trị nhân đạo.

Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương mẫu 2

Nếu kể tên các nhà văn nổi tiếng với thể loại truyền kì trong thời kì văn học trung đại, chúng ta không thể không nhắc tới Nguyễn Dữ. Ông là người học rộng, tài cao, là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học trung đại với tác phẩm "Truyền kì mạn lục". Một trong những truyện góp phần làm nên thành công lớn của "Truyền kì mạn lục" là "Chuyện người con gái Nam Xương".

"Truyền kì mạn lục" là tác phẩm được viết bằng chữ Hán, sử dụng nhiều chi tiết kì lạ, hoang đường. Tác phẩm này ghi chép tản mạn những câu chuyện kì lạ được lưu truyền trong nhân gian. Nguyễn Dữ đã tập hợp lại và sáng tạo thêm để tác phẩm thêm phần hấp dẫn. Nhân vật chính trong tác phẩm thường là người phụ nữ có số phận bất hạnh. Ở họ có những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại rơi vào cảnh ngộ éo le, oan trái. Bên cạnh đó, "Truyền kì mạn lục" còn có các nhân vật trí thức có tâm huyết nhưng bất mãn với cuộc đời, thời cuộc. "Chuyện người con gái Nam Xương" là một trong hai mươi truyện của tác phẩm nổi tiếng này.

Truyện kể về nhân vật Vũ Nương xinh đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na, được gả cho Trương Sinh làm vợ. Ít lâu sau, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ già, con nhỏ, một lòng một dạ chờ ngày chồng trở về. Ngỡ tưởng vợ chồng sẽ đoàn tụ sau bao ngày xa cách nhưng lúc Trương Sinh trở về cũng là lúc bi kịch của Vũ Nương bắt đầu. Ngày thường, ở một mình, vì thiếu bóng chồng nên nàng hay đùa con, chỉ vào bóng mình trên tường mà bảo đó là cha Đản. Với bản tính hay ghen, đa nghi, nghe lời con trẻ, Trương Sinh "đinh ninh là vợ hư", không tin lời phân trần của vợ nên đã đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương ra bến Hoàng Giang rồi gieo mình xuống sông mà chết. Nàng được Linh Phi cứu dưới thủy cung. Tại đây, Vũ Nương gặp một người cùng làng có tên là Phan Lang. Nàng nhờ Phan Lang về nói chuyện với Trương Sinh, nếu còn chút tình xưa nghĩa cũ thì lập đàn giải oan ở bến sông rồi nàng sẽ trở về. Trương Sinh biết mình đã nghi oan cho vợ bèn lập đàn giải oan cho nàng nhưng bóng nàng "loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất". Vũ Nương không thể trở về nhân gian được nữa.

Trải qua bao thế kỉ, "Chuyện người con gái Nam Xương" vẫn có sức hấp dẫn mạnh mẽ đến các thế hệ bạn đọc nhờ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Dữ đã thể hiện số phận bi kịch, éo le của người phụ nữ trong xã hội xưa mà điển hình là nhân vật Vũ Nương. Nàng vốn là người con gái "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp" nhưng cuối cùng nàng cũng chọn cái chết để giữ gìn và bảo vệ danh tiết. Khi Trương Sinh đi lính, nàng chăm sóc, dạy dỗ con nhỏ và tận tình chăm sóc mẹ chồng, lo toan chu tất đám tang cho bà. Một người con dâu hiếu thảo, một người vợ ngoan hiền, một người mẹ hết lòng vì con như vậy lại phải nhận kết cục bi thảm. Tác giả cũng lên tiếng tố cáo chiến tranh phi nghĩa và xã hội phong kiến đối xử bất công với người phụ nữ. Nếu chiến tranh không xảy ra, Trương Sinh không đi lính thì có lẽ Vũ Nương đã có một cuộc sống hạnh phúc bên chồng con. Với bản tính đa nghi, "đối với vợ thì phòng ngừa quá sức" lại thêm thời gian ba năm xa cách khiến Trương Sinh càng thêm lòng nghi ngờ sự chung thủy của vợ. Chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà Trương Sinh đã vội nghi oan cho người vợ của mình. Ngay cả khi họ hàng lên tiếng bênh vực Vũ Nương thì Trương Sinh vẫn mắng nhiếc và đánh đuổi người vợ "cách biệt ba năm giữ gìn một tiết". Nếu Trương Sinh không phải một kẻ thất học, đa nghi thì có lẽ số phận của Vũ Nương đã khác. Nếu không vì định kiến trọng nam khinh nữ trong xã hội đương thời thì Trương Sinh không có quyền xúc phạm, chà đạp lên danh dự, nhân phẩm của người vợ hiền thảo, nết na.

Bên cạnh tiếng nói lên án chiến tranh phi nghĩa và sự bất công trong xã hội phong kiến, Nguyễn Dữ còn ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ. Ở Vũ Nương hội tụ đầy đủ các nét đẹp, phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của nàng hoàn hảo từ ngoại hình đến tính cách. Với tư cách là một người con dâu, nàng tận tâm chăm sóc, "thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn" và "hết lời thương xót, phàm việc ma chay, tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình". Là một người vợ, nàng "cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót". Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là một người mẹ hết mực yêu thương con, chăm sóc, dạy dỗ con chu đáo. Qua nhân vật Vũ Nương, tác giả còn lên tiếng đòi quyền được đối xử công bằng, đòi quyền hạnh phúc cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ngoài ra, ông còn thể hiện sự cảm thông với những người phụ nữ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh, oan nghiệt. Chẳng vậy mà ông đã giải mối oan khuất cho Vũ Nương và cho nàng "ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện" để nói vọng vào với Trương Sinh: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa".

"Chuyện người con gái Nam Xương" hấp dẫn bạn đọc không chỉ bởi tình huống truyện độc đáo, bất ngờ, lối kể chuyện sinh động, cuốn hút mà truyện còn hấp dẫn người đọc bởi các yếu tố kì lạ, hoang đường. Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công các nhân vật để thông qua đó, ông có thể gửi gắm những tư tưởng nhân sinh của mình.

Có thể nói, dù lớp bụi thời gian có phủ mờ lên vạn vật nhưng "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ vẫn có sức sống lâu bền đến ngày hôm nay. Đây thực sự là áng văn mẫu mực của thời kì văn học trung đại Việt Nam, tiêu biểu cho tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Dữ.

Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương mẫu 3

Mỗi câu chuyện đều mang một giá trị, ý nghĩa nhân văn cao cả khác nhau dạy cho con người ta nhiều bài học quý giá trong cuộc sống. Một trong số những câu chuyện mang đến cho con người nhiều suy tư, trăn trở chính là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi truyện của tập Truyền kì mạn lục - ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền của nhà văn Nguyễn Dữ thời kì trung đại. Đây cũng là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất của nhà văn được nhiều người biết đến, giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là người con gái Vũ Nương với người chồng Trương Sinh và những tình tiết, nhân vật phụ khác. Vũ Nương được khắc họa là người phụ nữ xinh đẹp đức hạnh, luôn sống đúng chuẩn mực đạo đức, nàng luôn khao khát một cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng cuối cùng lại bị xô đẩy vào oan khuất, bất hạnh. Người đẩy nàng vào hoàn cảnh bất hạnh, bước đường cùng đó không ai khác chính là người chồng Trương Sinh với tính đa nghi mà nàng ngày đêm mong ngóng trở về. Chỉ vì một câu nói của bé Đản rằng đêm nào cha cũng đến thăm nó, mẹ đi cha cũng đi, mẹ ngồi cha cũng ngồi mà Trương Sinh đã không tiếc lời mắng chửi, đuổi nàng đi mà không cho nàng có cơ hội giải thích, minh oan cho bản thân. Sau này, khi biết được người cha mà Vũ Nương với con chỉ là cái bóng của nàng trên tường, Trương Sinh có hối hận cũng không kịp. Cuối cùng, người cùng làng tên là Phan Lang làm cầu nối để Vũ Nương gặp lại Trương Sinh và để Trương Sinh hối lỗi với nàng. Câu chuyện khép lại với việc Vũ Nương được giải oan và trở về thủy cung, có thể làm hài lòng cho một kết thúc câu chuyện nhưng lại không xứng đáng với nhân phẩm và cách sống cao đẹp của Vũ Nương.

Câu chuyện nói riêng và những tác phẩm văn học khác nói chung đã góp một phần không nhỏ vào việc làm nên kho tàng văn học Việt Nam thêm đồ sộ hơn. nhiều năm tháng qua đi nhưng nhân vật Vũ Nương và tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương vẫn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ độc giả.

Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương mẫu 4

Nguyễn Dữ là 1 văn sĩ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Ông là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục (in 1768).

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn.

Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XV.

Theo Bùi Duy Tân và một số học giả viết lời tựa cho các bản dịch Truyền kỳ mạn lục lưu tới ngày nay có ghi lại:

"Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các chuyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những chuyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép chuyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những chuyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái.

Thuyết minh về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ mẫu 5

"Truyền kì mạn lục" là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.

"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, tác phẩm truyền kì mạn lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là Vũ Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình.

Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI. Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ "miếu vợ chàng Trương":

"Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương... "

Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ Nương - người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.

Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nương và dễ dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn.

Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một người vợ hiền, ngoan nết "chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà", và cho dù Trường Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.

Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như chồng mình.

Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh động và lời lẽ đưa tiễn chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: "Chẳng mong chàng ái gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi"..., "thư tính, nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa...", là chi tiết cho cái "công - dung - ngôn - hạnh" mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.

Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của nàng.

Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời. Vũ Nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với chồng.

Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: "xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ ... "

Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thật vô tình).

Nỗi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của Vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là "vợ hư", mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi "đánh đuổi nàng đi". Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc - niềm vui "nghi gia nghi thất" không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giãi bày được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.

Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội tình gì. Mãi đến sau cái chết đó, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình. Chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.

Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ "Bảy nổi, ba chìm" đã phải sống trong cảnh đời như vậy:

"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"

Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông - người chồng vô học, đa nghi như Trương Sinh - là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công - "chế độ nam quyền" dưới thời phong kiến ngự trị.

Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan niệm đặc điểm truyền thống, nhưng phải chịu nổi oan tày trời và phải chứng thực sự vô tội của mình bằng cái chết. Cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm, từ một câu nói thơ ngây của con trẻ mà người chồng Trương Sinh đã nghi oan, đã làm mất đi người vợ quý trên đời. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch nát lòng này chính là do chiến tranh loạn lạc và lễ giáo phong kiến trọng nam quyền trong xã hội ngày trước.

-----------------------

Ngoài Văn mẫu lớp 9: Thuyết minh về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, mời các bạn tham khảo thêm Soạn Văn 9 được cập nhật liên tục trên VnDoc để học tốt Ngữ văn 9 hơn.

Đánh giá bài viết
76 86.175
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 9

    Xem thêm