Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Thuyết minh về món ăn truyền thống

Thuyết minh về món ăn truyền thống được VnDoc sưu tầm và đăng tải. Tài liệu bao gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay cho các em tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng hoàn thành bài văn hoàn chỉnh, đạt điểm cao trong các bài thi sắp tới.

I. Dàn ý thuyết minh về món ăn truyền thống

Mẫu số 1

I. Mở bài:

Vào mỗi dịp tết, chúng ta thường làm các món ăn truyền thống như: bánh tét, bánh giày, mứt,…. Những món ăn này luôn có mặt trong tất cả các lễ tết. một món bánh truyền thống có từ lâu đời, có vào các ngày lễ một món ăn mà em rất yêu thích là bánh chưng. Món ăn này rất ngon và bổ ích, em rất thích ăn bánh chưng.

II. Thân bài:

1. Nguồn gốc bánh chưng:

- Sự tích bánh chưng:

+ Bánh chưng được lưu truyền thuyết liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6

+ Món bánh này nói đến sự nhắc nhở của Vua đến sự quan tâm đến và biết ơn đến lúa nước.

- Quan niệm truyền thống của bánh chưng:

+ Bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa

+ Bánh chưng tượng trưng cho trời

2. Nguyên liệu làm bánh:

- Lá gói bánh

- Lạc buột

- Gạo nếp

- Đỗ xanh

- Gia vị khác

- Phụ màu

3. Quy trình chuẩn bị gói bánh:

- Lá gói bánh: lá dong hoặc lá chuối, rửa lá cho sạch rồi phơi khô

- Gạo nếp: được vo sạch, ngâm để hạt được mềm

- Đỗ xanh: ngâm tách vỏ, giã nguyễn, trộn với thịt

- Thịt lợn: rửa sạch, cắt nhỏ và ướt gia vị

4. Quy trình thực hiện:

- Gói bánh: bánh được gói bằng tay, khuôn bánh khoảng 25cm x 25cm

- Luộc bánh: bánh được luộc trong nước, và luộc khoảng 10 đến 12 tiếng

- Sử dụng bánh

+ Bánh được dùng để cúng vào ngày tết

+ Bánh dược dùng để đón tết

+ Bánh được dùng để biếu người thân

III. Kết bài:

- Bánh chưng là món ăn truyền thống của dân tộc Việt Nam

- Chúng ta nên lưu giữ truyền thống của dân tộc

Thuyết minh về món ăn truyền thống

Mẫu số 2

1. Mở bài

Giới thiệu đối tượng cần thuyết minh: bánh chưng ngày tết.

2. Thân bài

a. Khái quát chung

Bánh chưng theo dân gian ta có xuất phát từ câu truyện cổ tích “Bánh chưng bánh giầy”, người phát minh là Lang Liêu, con vị vua Hùng thứ 6. Nhờ 2 món bánh này mà chàng đã trở thành vua, từ đó bánh chưng trở thành một món ăn không thể thiếu vào dịp lễ tết.

b. Thuyết minh chi tiết

Bánh chưng có hình vuông, được gói từ lá dong xanh và buộc bằng lá giang hoặc dây lạt.

Nguyên liệu làm bánh chưng: gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn (thịt ba chỉ), lá dong, lạt buộc và một số gia vị (muối, tiêu,…).

Chuẩn bị: lá dong rửa sạch, cắt bỏ cuống cho vuông vắn bằng nhau, gạo nếp sau khi ngâm thì rửa sạch, đậu xanh bỏ vỏ, đồ nhuyễn, thịt lợn cắt miếng khoảng hai đột ngón tay, lạt giang chẻ nhỏ.

Quy trình gói bánh: lấy chiếc khuôn hình vuông sau đó xếp lá theo 4 góc vuông của khuôn, đổ lần lượt gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, đậu xanh, gạo nếp vào trong khuôn đã xếp lá cho thật vuông vắn sau đó gấp phần lá còn lại cho chê hết được nguyên liệu bên trong rồi dùng lạt buộc chặt bánh lại.

Để nấu bánh chưng, người ta chuẩn bị một chiếc nồi bên dưới phủ lá dong còn thừa rồi xếp bánh ngay ngắn, đổ nước ngập bánh rồi bắc lên bếp đun trong khoảng 8-12 tiếng tùy kích cỡ to nhỏ của bánh. Trong quá trình đun, cần phải thường xuyên xem nước trong nồi đã cạn chưa và đổ thêm nước để tránh tình trạng bánh bị cháy.

Sau khi bánh chín, vớt ra để ráo rồi lấy khăn lau sạch bề mặt bánh, chỉnh lại dây lạt cho bánh đẹp nhất có thể, để cho bánh nguội là có thể sắp lên bàn thờ, mang đi biếu hoặc ăn luôn.

c. Ý nghĩa của bánh chưng ngày tết

Bánh chưng là nét đẹp văn hóa, là một trong những biểu tượng của ngày tết cổ truyền Việt Nam. Nó không chỉ là món ăn mà còn là tinh thần được lưu truyền bao năm tháng.

3. Kết bài

Khái quát lại những giá trị, ý nghĩa của bánh chưng ngày tết và nêu lên trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn nét đẹp này.

II. Văn mẫu thuyết minh về món ăn truyền thống 

Mẫu 1 - Bánh trung thu

Bánh trung thu là loại bánh cổ truyền của người dân Việt. Thấy bánh trung thu là thấy Tết Đoàn viên đã gần kề. Thế nhưng, ít ai lại am hiểu tường tận về nguồn gốc và cách làm bánh trung thu đậu xanh truyền thống.

Bánh trung thu có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Hoa với tên gọi “Nguyệt Bánh” bởi bánh có hình tròn vành vạnh như mặt trăng, tượng trưng cho sự toàn vẹn, viên mãn. Ở Việt Nam, bánh trung thu gắn liền với sự tích về chị Hằng và chú Cuội nên còn là ngày tết của thiếu nhi. Trên mâm cỗ đêm rằm của con trẻ, bánh trung thu xuất hiện cùng đèn ông sao và các loại hoa quả.

Bánh trung thu Việt Nam có cả hình tròn và hình vuông. Trên mặt bánh thường được in hình hoa văn hoặc chữ cổ rất tinh tế và thanh tao. Nguyên liệu làm phần vỏ bánh gồm có: bột mì, nước đường, dầu ăn, lòng đỏ trứng gà, bơ đậu phộng. Nguyên liệu làm phần nhân bánh gồm đậu xanh, đường cát, dầu ăn và bột bánh dẻo.

Công đoạn làm bánh trung thu được chia làm hai phần chính là làm vỏ bánh và làm nhân bánh. Phần nhân bánh thường được làm từ ngày hôm trước vì đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất. Đậu xanh đã được rửa sạch và ngâm, nay cho vào nồi nấu đến khi chín. Để đậu sánh, ta cần xay nhuyễn đậu cùng đường cát. Tiếp đến, ta bắc chảo, cho đậu lên chảo và sên liên tục cho đến khi sệt lại. Thời gian sên đậu có thể kéo dài từ một tiếng trở lên. Khi kiểm tra và thấy nhân đậu không bị dính tay, ta trộn thêm bột bánh dẻo vào. Đợi đến khi hỗn hợp nguội, ta cho nhân bánh ra khay và nặn thành từng viên tròn. Với phần vỏ bánh, ta trộn đều nước đường, dầu ăn, bơ đậu phộng và lòng đỏ trứng gà vào thau, chú ý không nhồi nguyên liệu. Sau đó, cho bột mì vào hỗn hợp trên và trộn đều và đậy kín lại để bột nghỉ trong khoảng ba mươi phút. Hết thời gian bột nghỉ, ta chia bột ra thành các phần bằng nhau, vo viên tròn rồi lần lượt cán bột. Lúc này đã đến công đoạn gói bánh. Người đầu bếp cẩn thận cho nhân vào giữa gói lại sao cho không khí không lọt vào bánh. Để bánh có vẻ ngoài hấp dẫn, ta có thể chuẩn bị những khuôn bánh với đa dạng các loại hoa văn khác nhau. Cho bánh vào khuôn, ấn xuống chờ khoảng vài giây rồi thả ra. Cuối cùng, ta xếp bánh lên khay có lót giấy nến và đưa vào lò nướng ở nhiệt độ thích hợp.

Bánh trung thu không chỉ là một món ăn mà còn là trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn con người. Ngày nay, bánh được bày bán rộng rãi vào cả ngày thường. Dù có nhiều hương vị mới ra đời nhưng bánh truyền thống vẫn giữ được sức hút riêng. Bánh trung thu thực sự thể hiện được vẻ đẹp văn hóa đại diện cho đất nước Việt Nam.

Mẫu 2 - Giò lụa

Tết là dịp lễ cổ truyền của dân tộc, cũng là dịp để gia đình có thể sum vầy, tụ họp bên nhau và ăn những bữa cơm ấm cúng. Những bữa ăn ngày Tết thường được chế biến rất đa dạng bởi bàn tay người bà, người mẹ,... Nhắc đến những món ăn vào dịp Tết, người ta thường nghĩ ngay đến bánh chưng, gà luộc, chè làm,... và một món ăn rất quen thuộc, dễ ăn lại có thể chế biến nhiều cách đó là giò lụa.

Giò lụa là món ăn đã có từ rất lâu đời. Vào giữa thế kỉ 18, đó là thực phẩm quý chỉ được dâng cho vua chúa dịp lễ lớn. Sau này, giò lụa đã trở thành món ăn vừa dân dã, quen thuộc, vừa sang trọng đãi khách. Cùng với sự khác nhau trong cách làm của từng miền, giò lụa ở mỗi miền có sự đặc trưng riêng, góp phần làm phong phú thêm ẩm thực - Việt Nam nhưng nhìn chung thường được làm từ thịt được giã/xay mịn hòa cùng với gia vị rồi gói trong lớp lá chuối dân dã, xanh mướt, đem luộc cho chín.

Để làm 1kg giò lụa, cần chuẩn bị 1kg thịt nạc, bột năng, bột nở, gia vị gồm đường, nước mắm và muối. Ngoài ra vật dụng không thể thiếu để làm nên thành công của món ăn này chính là lá chuối và dây lạt hoặc dây ni lông. Thịt lợn sau khi mua về cần rửa sạch rồi thái nhỏ, ướp thịt với gia vị rồi cho vào ngăn đá tủ lạnh khoảng hai tiếng, dùng máy xay thịt rồi lại cho thêm vào tủ hai tiếng nữa. Sau hơn bốn tiếng, chúng ta đem thịt ra xay cùng một ít nước để có hỗn hợp giò sống.

Công đoạn tiếp theo đòi hỏi người làm có kinh nghiệm, đó là bó giò mang đi hấp. Lá chuối phải được rửa sạch, đặt dây lạt ở dưới là, cho giò lên rải đều và gói lại. Khi gói giò nên cuộn thành hình ống dài và cuộn hai đầu lại, dùng dây lạt buộc lại. Lưu ý khi gói giò là không nên gói quá chặt vì giò sẽ nở ra trong quá trình nấu. Giò sau khi được gói cho vào luộc khoảng 20 phút (tùy theo nồi chúng ta sử dụng để luộc mà căn giờ), sau đó vớt ra để ráo nước là có thể dùng được.

Giò lụa không chỉ ngon, tiện lợi lại dễ dàng bảo quản được lâu. Chính vì thế, nhiều gia đình đã lựa chọn món ăn này để dữ trữ trong những ngày Tết. Giò lụa có thể ăn trực tiếp với cơm trắng, cũng có thể biến tấu theo nhiều cách. Một số món ăn có thể chế biến dễ dàng như: giò lụa kho trứng cút, nộm (gỏi) giò lụa, giò lụa xào miến, giò lụa rim/sốt,...

Nếu không có thời gian để làm giò tại nhà, có thể mua sẵn ở hàng quán dựa vào một số kinh nghiệm được truyền lại. Khi mua giò, mặt giò cắt ra phải được mịn ướt, đôi chỗ có rỗ xốp vì đó là giò được làm từ thịt ngon, thịt nghiền có độ dẻo quánh. Khi ăn giò chúng ta cảm nhận được vị thơm của thịt, không bị bở cũng không quá giòn vì nếu giòn là giò dễ dính hàn the. Ăn xong, hương vị của giò còn đọng lại ở cuống họng.

Món ăn giò lụa đã được miêu tả lại trong sách vở. Nhà văn Nguyễn Tuân trong tùy bút Giò lụa xuất bản năm 1973 đã có những câu văn rất hay về món ăn này: “Không sợ là huênh hoang thiếu khiêm tốn, ta có thể nói rằng biết chế lợn ra thành cân giò lụa, đó là một dạng văn hóa dân tộc toàn cầu... Hình như giò lụa là một tiết mục độc đáo chỉ ta mới có, chỉ người Việt Nam ta mới nghĩ ra và làm ra”. Đó không chỉ là món ăn thường nhât mà chính là món ngon tiêu biểu, một nét văn hóa trong ẩm thực người Việt.

Mẫu 3 - Thịt kho tàu

Khi nói đến món thịt kho tàu là món ăn quen thuộc hàng ngày nhưng cũng là một món ăn truyền thống vào dịp Tết nhất. Hầu hết mọi gia đình Việt Nam từ Bắc chí Nam đều chuẩn bị một nồi thịt kho thật lớn vào những ngày 29, 30 cuối năm, để dành ăn dần qua đến hết mồng Ba, mồng Bốn Tết.

Và đặc biệt là những miếng thịt heo kho trong dịp này thường được cắt lớn gấp ba lần miếng thịt kho ngày thường. Thịt kho, dưa giá, củ kiệu tôm khô, bánh chưng bánh tét… đều là những món ăn “kinh điển” trong những ngày Tết Việt Nam. Thịt kho có thể để lâu, nên hâm nóng sau khi ăn và lúc sáng sớm.

Dám chắc rằng rất nhiều người cũng nhầm tưởng rằng tên món này xuất phát từ Trung Quốc, là của người Tàu. Nhưng rồi tôi cứ thắc mắc rằng ít khi thấy người Tàu ăn món này, mà nguyên liệu để dùng cho món thịt kho tàu, là thịt ba rọi, cái loại thịt có cả nạc, cả mỡ, cả bì, xếp từng lớp khéo léo cứ như người ta cố tình tạo ra nó, thì chắc chỉ có dân Việt.

Mãi cho đến khi đọc tài liệu về thịt kho tàu, mới thấy có cách giải thích hợp lý hơn cả: theo ông nhà văn Nam Bộ Bình Nguyên Lộc, chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là hai con sông nước lợ. Như vậy thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt.

Cũng có thuyết rằng, món thịt kho bên Tàu từ cái ông tể tướng Vương An Thạch đời Tống nghĩ ra, nhưng xem lại thì cái món thịt kho của ông, chả giống gì cái cách mà chúng ta thấy ở miếng thịt kho tàu xứ Việt. Vậy hóa ra cái món thịt kho mà được cả Bắc Nam hâm mộ ấy, đúng như lời giáo sư Trần Văn Khê nói: món thịt kho “tàu” hóa ra lại là “ta” hoàn toàn, món Việt trăm phần trăm. Thịt kho tàu, cùng với bánh tét, dưa hấu, canh khổ qua dồn thịt, đã trở thành món không thể thiếu trong thực đơn ngày Tết của người Nam Bộ.

Miếng thịt mềm rục có cả màu đỏ au của thịt nạc, trong trong của mỡ, nâu nâu của bì hầm nhừ, sóng sánh vàng ươm của nước màu chưng đường, kèm vị bùi của nước dừa xiêm, vị mặn của nước mắm đã được làm thanh đi bằng đường, thi thoảng có thêm vị hắc của chút xì dầu, điểm xuyết thêm mấy hột vịt luộc mà nước thịt ngấm đều từ trong lòng đỏ đến lòng trắng, đặt cạnh bát cơm trắng thơm nức trên bàn thờ ông bà, bên cạnh đĩa dưa chua, dường như đã thành truyền thống trong mâm cơm cúng tưởng nhớ ông bà tổ tiên.

Ở ngoài Bắc, có lẽ để phù hợp với khí hậu lạnh, món thịt kho tàu đã được thay thế bằng đĩa thịt đông trong mâm cơm cúng ngày Tết. Tuy nhiên trong bữa ăn hằng ngày mùa lạnh, thì món thịt kho tàu vẫn là một trong những món được ưa chuộng nhất. Thịt kho tàu ở ngoài Bắc, ít có nước dừa xiêm, nhưng vẫn không thể thiếu vị hành khô, nước mắm, vị của đường cháy tạo ra vị hơi ngọt, làm giảm cái mặn khát của các món kho thông thường, tạo màu vàng óng cánh gián quyến rũ.

Thịt kho tàu cũng như bao món kho khác, được nấu như món ăn để lưu trữ dài ngày. Nấu thịt kho tàu không khó, nhưng để nấu ngon, cũng không dễ chút nào. Miếng thịt mềm nhừ mà không nát, không bị quắt lại, màu thịt đỏ au ánh lên màu cánh gián, trứng vịt thấm đẫm nước thịt mà không đen, nước thịt vàng trong, không quá lõng bõng nước nhưng cũng không quá cạn làm khô miếng thịt.

Mỗi lần ăn có thể mang ra đun lại, càng nhiều lửa, thịt càng rục, càng mềm, càng ngon. Thịt kho tàu có thể được ăn với nhiều món, cơm trắng, dưa kiệu, dưa giá nhưng có lẽ phổ biến nhất là ăn kèm với dưa cải chua. Có lẽ vì mặn, vị ngọt, vị bùi béo của thịt kho tàu kết hợp với vị chua xen lẫn cay cay của dưa cải muối xối, tạo nên hương vị quyến rũ đến bất ngờ.

Nước thịt kho tàu chấm dưa cải, hay rưới vào bát cơm gạo mới nóng hổi, không cần ăn thêm gì cũng thấy ngon. Không chỉ có vì bùi béo của thịt, nước thịt kho ngấm vào trứng luộc đã bóc vỏ, tạo nên vẻ quyến rũ lạ kỳ cho quả trứng, khác hẳn với vị ngán rất khó nuốt của trứng luộc thông thường. Có một món nữa chắc sẽ làm xiêu lòng người thích thịt kho tàu, là xôi trắng ăn với thịt kho tàu. Buổi sáng, làm bát xôi trắng, với mấy miếng thịt kho tàu, chan ít nước thịt kho tàu lên, đảm bảo chắc dạ đến trưa.

Người Nam bộ còn có món bánh tráng ăn với thịt kho tàu, vừa là món ăn chơi, nhưng khi kèm với thịt kho tàu, nó cũng trở thành món chính từ lúc nào. Miếng bánh tráng trụng qua nước, gói với rau thơm, đồ chua, kèm thịt, nhúng vào bát nước thịt đã dầm trứng, nêm thêm ít chanh với vài lát ớt cay, vừa ăn vừa xúyt xoa, còn gì bằng!

Mẫu 4 - Bánh chưng

Là đại diện cho nền văn hóa ẩm thực cũng như tín ngưỡng tâm linh của dân tộc Việt, bánh chưng xuất hiện từ trước thời văn minh lúa nước và luôn hiện diện trong đời sống của người dân ta. Theo sự tích xưa, vào đời Vua hùng thứ sáu, vì muốn tìm người nối ngôi, vua Hùng đã ban lệnh nếu trong các con của mình ai tìm được món ăn ngon để làm cỗ thì sẽ truyền ngôi cho. Trong các con của vua thời bấy giờ có Lang Liêu là một người hiền lành, nhờ sự giúp đỡ của thần tiên, chàng đã làm ra hai loại bánh, một loại có hình vuông gọi là bánh chưng, tượng trưng cho đất còn bánh hình tròn là bánh dầy, tượng trưng cho trời. Nhờ vào hai loại bánh này mà Lang Liêu đã được nối ngôi vua và cũng từ đó, bánh chưng trở thành một món ăn truyền thống không thể thiếu, nó thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.

Vào ngày tết cổ truyền, hầu như nhà nhà ở Việt Nam đều không thể thiếu đi những chiếc bánh chưng xanh trên mâm cúng ông bà, bàn thờ của gia đình. Để làm ra một chiếc bánh thơm ngon đúng điệu phải trải qua rất nhiều công đoạn. Nếp, đỗ xanh và thịt lợn là nguyên liệu chính để là ra món bánh này và bánh còn phải được gói trong lá dong thì mới có màu xanh bắt mắt. Tuy nhiên, trong thời buổi hiện nay, nhiều gia đình vì quá bận rộn nên không thể tự gói bánh mà thường đặt mua nhưng dù là tự túc hay được mua bán thì món bánh này cũng là một nét đẹp văn hóa không thể thiếu của người Việt ta, là sản vật dâng lên tổ tiên, ông bà, cha mẹ trong ngày tết, là truyền thống tốt đẹp có từ lâu đời trong tâm thức của những người con rồng cháu tiên.

Ngày nay, ở nhiều miền quê vẫn còn những gia đình đặc biệt, lưu giữ một tập quán lâu đời là dành riêng một thửa đất để trồng các loại nếp quý như nếp cái hoa vàng,… chỉ dùng để làm những món ăn cúng lễ hay những dịp quan trọng trong năm, trong đó có bánh chưng. Điều này đã nói lên được phần nào tầm quan trọng và ý nghĩa của món bánh này trong đời sống người Việt. Vào thời chiến, bánh chưng còn là món quà mà các mẹ, các cô gửi cho bộ đội ăn tết, vô cùng quá giá và thấm đượm tình cảm dân quân, bánh chưng từ đó cũng theo suốt chiều dài lịch sử oai hùng dựng nước và giữ nước của cả dân tộc. Những chiếc bánh dẻo mềm và thơm ngon ấy có mặt trong hầu hết các hoạt động tín ngưỡng xã hội, xuất hiện cả trong những câu ca dao thân thương, là cầu nối gắn kết giữ quá khử và hiện tại.

Mẫu 5 - Nem rán

Việt Nam được biết đến là đất nước có nền văn hóa ẩm thực khá phong phú. Chúng ta có thể kể tên các món ăn đặc sản của dân tộc như bánh chưng, bánh cốm, phở, bún bò,... và đặc biệt là món nem rán. Đây là món ăn vừa cao quý lại vừa dân dã, bình dị để lại một mùi vị khó phai mờ trong mỗi chúng ta.

Nem rán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thuộc nhóm các món Dimsum. Món ăn này đã theo chân những người Hoa khi di cư sang nước ta và được biến đổi thành món ăn phù hợp với khẩu vị người Việt. Nem rán không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà nó còn góp mặt trong ẩm thực của đất nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Ba Lan và nhiều nước Trung, Nam Mĩ,... với các tên gọi khác nhau như Harumaki, Chungwon, Rouleau de printemps, Sajgonki,...Ở Việt Nam, tùy theo vùng miền mà món ăn này có những tên gọi riêng. Nem rán là cách gọi của người dân miền Bắc, người miền Trung gọi là chả cuốn và chả giò là cách gọi của người dân miền Nam.

Nguyên liệu chế biến món nem rán khá đa dạng nhưng cũng hết sức dễ tìm. Để món ăn đầy đủ các thành phần dinh dưỡng chúng ta cần chuẩn bị thịt băm, trứng gà hoặc trứng vịt, hành tây, hành lá, cà rốt, su hào, giá đỗ, rau mùi, rau thơm, mộc nhĩ, mì hoặc miến,...và một số loại gia vị như mì chính, bột canh, hạt tiêu, nước mắm,...Những gia vị này sẽ giúp món ăn thêm phần đậm đà, hấp dẫn. Một thứ không thể thiếu đó chính là bánh đa nem. Bánh đa nem được làm từ gạo và khi chọn ta cần lựa những lá bánh mềm, dẻo để khi gói không bị vỡ.

Để có được món nem rán thơm phức hoàn hảo, trước hết chúng ta cần sơ chế các nguyên liệu đã chuẩn bị. Chúng ta ngâm nấm và mộc nhĩ cho đến khi chúng nở ra rồi rửa sạch, thái nhỏ. Đồng thời các loại rau củ cũng gọt vỏ, rửa sạch và thái. Mì hoặc miến ngâm nước ấm trong khoảng năm phút rồi cũng cắt thành từng đoạn ngắn. Sau đó, cho tất cả các nguyên liệu vào âu hoặc bát to, đập thêm trứng, nêm thêm gia vị rồi trộn đều.

Số trứng dùng để làm nem không nên quá nhiều vì như thế sẽ khiến nhân nem ướt rất khó cuộn và cũng không nên quá ít vì nem sẽ bị khô. Vì vậy, khi đập trứng ta nên đập lần lượt từng quả để ước lượng lượng trứng phù hợp. Màu cam của những sợi cà rốt, màu trắng của mì, màu xanh của rau, màu vàng của trứng,... tất cả hòa quyện với nhau trông thật hài hòa. Chúng ta sẽ ướp phần nhân nem từ 5 đến 10 phút để các gia vị ngấm đều.

Tiếp theo, chúng ta trải bánh đa nem trên một mặt phẳng rồi cho nhân nem vào cuộn tròn. Bánh đa nem có loại hình tròn, hình vuông, cũng có loại hình chữ nhật, tùy theo sở thích mà mỗi người lại lựa chọn những loại bánh đa nem khác nhau. Nếu muốn bánh đa nem mềm và giòn thì trước khi cuốn nem nên phết lên bánh đa nem một chút nước giấm pha loãng với đường và nước lọc.

Chúng ta nên gấp hai mép bánh đa nem lại để phần nhân nem không bị chảy ra ngoài. Sau đó, đun sôi dầu ăn rồi cho nem vào rán. Khi rán nên để nhỏ lửa và lật qua lật lại để nem được chín vàng đều rồi vớt ra giấy thấm để nó hút bớt dầu mỡ, tránh cảm giác bị ngấy khi thưởng thức.

Nước chấm là thứ không thể thiếu để món nem trở nên đậm đà. Muốn có nước chấm ngon, chúng ta cần chuẩn bị một chút đường, tỏi, giấm, ớt, chanh và nước mắm. Đầu tiên, ta hòa tan đường bằng nước ấm rồi cho thêm tỏi, ớt đã băm nhỏ. Sau đó đổ từ từ giấm và nước mắm vào rồi khuấy đều cho các gia vị ngấm đều. Ta có thể thay giấm bằng chanh hoặc quất. Tùy khẩu vị của mỗi người mà nước chấm có độ mặn ngọt khác nhau.

Cuối cùng, bày nem ra đĩa, trang trí thêm rau sống, cà chua hay dưa chuột thái lát để đĩa nem trông thật đẹp mắt. Những bông hồng được làm từ cà chua, những bông hoa được tỉa từ dưa chuột sẽ khiến món ăn vô cùng hấp dẫn. Nem rán chấm với nước chấm tỏi ớt sẽ mang lại cảm giác rất thú vị. Bánh đa nem vàng giòn cùng nhân nem thơm phức quyện hòa với nhau cùng vị cay cay của ớt, chua chua của giấm, ngòn ngọt của đường sẽ khiến những ai thưởng thức nó không bao giờ có thể quên được mùi vị đặc biệt này.

Nem rán đã trở thành một món ăn phổ biến trên khắp đất nước Việt Nam. Nó không chỉ có mặt trong những bữa cơm bình dị thường nhật mà còn xuất hiện trong mâm cơm thờ cúng tổ tiên. Đây là món ăn mang ý nghĩa trang trọng, cao quý. Ngoài ra nem rán còn dùng để ăn kèm với bún đậu và các món ăn khác. Giữa tiết trời se lạnh như thế này còn gì tuyệt vời hơn khi thưởng thức món em rán nóng hổi. Sự kết hợp các nguyên liệu làm nên nhân nem như mang một ý nghĩa biểu tượng về sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người dân đất Việt.

Nem rán không chỉ là món ăn giàu chất dinh dưỡng mà còn là món ăn góp phần tạo nên nền ẩm thực Việt với những đặc trưng và sự độc đáo riêng biệt. Món ăn này tuy dễ thực hiện nhưng lại đòi hỏi sự kì công và khéo léo nên người chế biến cần có sự tập trung nhất định. Đây còn là một trong những món ăn thu hút khách quốc tế khi đến thăm Việt Nam. Có thể nói, món nem rán nói riêng và ẩm thực Việt nói chung đang ngày càng khẳng định được giá trị trên thế giới.

----------------------------------------------------------------

Mời các bạn tham khảo tài liệu liên quan:

Ngoài ra các bạn tham khảo thêm tài liệu lớp 9 đầy đủ các môn Toán, Văn, Anh, , Hóa, Sinh... mà chúng tôi sưu tầm, chọn lọc bám sát với chương trình học lớp 9 hơn. Hy vọng rằng tài liệu lớp 9 này sẽ giúp ích trong việc ôn tập và rèn luyện thêm kiến thức ở nhà. Chúc các bạn học tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
55
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Soạn Văn 9 Sách mới

    Xem thêm